TTđTD - Đây là thói quen tạp nhiễm mà toàn thân đều điên đảo về dục, tức điên đảo tạo một cái nghiệp dâm dục là nghiệp chính để mà có quả báo. Mỗi loài theo các nghiệp nặng nhẹ khác nhau nhưng nghiệp chính là dâm dục thì thuộc nhóm ngang dọc này. Nếu có nghiệp nặng thì chun vào thai loài súc sanh, trâu bò, chó mèo...; nghiệp nhẹ hơn vào các loài tiên cảnh. Loài người do tu phép trường sanh mà thành tiên, như thế tiên cũng thuộc loài người; nghiệp không nặng không nhẹ thì vào thai người. Lâm chung thấy chất tinh ướt của cha mẹ, khởi ham thích tinh cha huyết mẹ ấy nên mắc vào bào thai
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (2)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (3)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (5)
CHƯƠNG VIII: NĂNG LỰC THẦN CHÚ
Đức Phật dạy: “A-nan, thầy hỏi cách nhiếp trì tâm niệm thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào tam-ma-đề, tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát, trước nhất cần giữ bốn thứ luật nghi đó trong sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được tất cả nhành lá; ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp ác chắc chắn không còn có nhân mà sinh được. A-nan nếu giữ bốn việc như vậy không thiếu xót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất cả ma sự làm sao mà phát sanh được. Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, thầy dạy người đó nhất tâm tụng thần chú vô thượng ‘Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra’ của tôi, đó là cái tâm chú do vô vi tâm Phật của vô kiến đỉnh tướng Như lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
Vả lại, thầy cùng nàng Ma-đăng-già do nhân duyên nhiều kiếp trước thành tập khí ái ân, không phải một đời hay một kiếp; song một phen tôi tuyên dương thần chú, nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia còn là dâm nữ, không có tâm tu hành, do sức thần chú giúp, cũng mau chứng quả vô học; thế thì các thầy, những hàng Thanh Văn trong hội này, cầu tối thượng thừa, thì quyết định sẽ thành Phật, cũng ví như bụi bay gặp gió thuận, có khó khăn gì?”[1] .
Từ nhiều kiếp chúng ta đã tạo vô biên tội ác từ sát đạo dâm vọng, tùy theo nghiệp báo mà chúng ta thọ lãnh tội nặng nhẹ.
Tham ái nhẹ tái sanh làm loài chim cá.
Sân hận nhẹ tái sanh làm rắn, mèo, hổ báo.
Ngu si nhẹ tái sanh làm voi, heo, ruồi và kiến.
Khi nghiệp báo trả ở thân súc sanh nhưng còn dư báo nên khi lên làm người thì hay bị chướng duyên do:
1. Vì tập khí nên xuất gia dễ phạm giới sát, đạo, dâm, vọng. Nếu làm phật tử tại gia phát tâm giữ 5 giới, 10 giới, nhưng việc giữ giới vẫn bị khiếm khuyết, không được trọn vẹn.
2. Vì dư báo nên câm điếc, đui ngọng, gẫy tay hoặc gặp những chuyện hẩm hiu, chướng nạn.
3. Dễ bị phiền não chi phối, khó điều ngự được. Vì phiền não nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham, sân, si để đời đời đi lại trong tam đồ.
Do ba điều này chi phối chúng ta, nhất là chủng tử tập khí, nên đạo nghiệp của chúng ta khó thành, ý chí khó vững.
Xin kể một chuyện về tập khí sát sanh:
Có một tên giết người, sau này được cảm hoá và xuất gia. Dù xuất gia nhưng tập khí cũ vẫn còn mạnh mẽ trong lòng. Ở chùa hay tiếp xúc Phật tử nếu gặp việc không vừa ý, trái ý, thì tập khí hung dữ đó khởi lên mãnh liệt muốn hãm hại đối tượng của mình, muốn đánh, muốn đả thương, dùng bạo lực để đánh trả những người không nghe lời sư.
Cơn khủng hoảng mâu thuẫn dằn vật dữ dội vì sư không muốn như vậy nhưng bên trong tập khí nổi lên, khiến tay chân sư ngứa ngáy muốn cầm vũ khí hung hãn đánh người.
Vị thầy bổn sư phải đứng một bên ân cần khuyên bảo, cùng với tập trung trì chú hỗ trợ để giúp cho ý thức của sư có đủ sức mạnh kềm chế những tập khí thói quen cũ và nhờ tha lực của thần chú gia hộ. Sau nhiều lần trì chú và sám hối, ý thức sư chiến thắng tập khí cũ.
Sư trở nên hiền lành như một nhà sư cửa Phật.
Tập khí thói quen là một cái gì đó không hình không tướng nhưng vẫn chi phối chúng ta khó diệt. Thế nên, trong nhà thiền có bài kệ truyền tụng nổi tiếng như sau:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Ða sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Tạm dịch:
Ðốn ngộ tuy bằng Phật
Nhiều đời tập khí vây.
Gió dừng, còn sóng dữ
Lý hiện, niệm còn đầy.
Bây giờ được làm người, chúng ta còn nhiều dư báo của chủng tử súc sanh sót rớt lại trong thân tâm này, nên chúng ta bị báo chướng (sáu căn không đủ, bịnh hoạn), nghiệp chướng (chủng tử tập khí) và phiền não chướng (phiền, hận, ghen ghét, tập đố...) theo chướng ngại mình.
Để tiêu những tập khí nghiệp báo này, ngoài việc sám hối, quán tưởng hay điều ngự tâm, chúng ta có thể thành tâm trì tụng thần chú sẽ giúp chúng ta có năng lực tiêu trừ tận gốc các tập khí thâm sâu khó gỡ. Hiệu lực của thần chú Thủ Lăng Nghiêm rất lớn.
Thần chú Thủ Lăng Nghiêm còn gọi là Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra hay Bạch Tán Cái tức chỉ cho cái thể dụng rộng lớn của bản lai tự tánh. Bạch là trí tuệ. Tán cái là lòng từ bao la rộng lớn. Như vậy, chú Lăng Nghiêm là biểu hiện toàn thể toàn dụng của tự tâm nên gọi là tâm chú.
Tâm chú này có khả năng và hiệu quả rất lớn, có khả năng tiêu trừ tập khí sát, đạo, dâm, vọng, đặc biệt là tập khí của lòng ái dục. Chính thần chú này đã cứu A-nan và nàng Ma-đăng-già ra khỏi đám mây ái dục. Và khi người trì tụng phát tâm cân xứng với thần chú này nghĩa là cân xứng với bản lai tự tánh.
Thần chú này thuộc mật giáo. Có năm đệ (phần) chia ra 427 câu [2] và không giải nghĩa được. Còn các phần khác trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đều thuộc hiển giáo vì Đức Phật có giải thích từng phần, từng câu rõ ràng.
Thần chú này tùy mỗi nước phiên âm có sai khác đôi chút, nhưng nếu có lòng tin bất động đúng đắn, nhiếp tâm thọ trì miên mật thì sẽ có hiệu nghiệm.
Trong chốn thiền môn thời Lăng Nghiêm được gọi là thời công phu khuya (tức công phu tu tập mới sớm tinh mơ) khoảng 5 giờ hay 6 giờ sáng, tùy từng chùa. Ngoài năm đệ Lăng Nghiêm còn kèm theo chú Đại bi và thập chú như chú Như ý bảo luân vương, Tiêu tai kiết tường, Công đức bảo sơn, Phật mẫu chuẩn đề, Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương, Dược sư quán đảnh, Quán âm linh cảm, Thất Phật diệt tội, Vãng sanh tịnh độ và Thiện thiên nữ chú.
Đây là thời công phu rất thanh tịnh vì sau một đêm nghỉ ngơi, ngủ dậy, tâm trí rất trong sáng, nhẹ nhàng, những công việc hàng ngày nặng nhọc, bận rộn đã lắng xuống, nên thần chú dễ thấm nhuần thân tâm. Thêm vào đó, buổi sáng tinh mơ không khí yên tĩnh, trong lành, thần kinh êm dịu, việc tụng kinh trì chú dễ dàng tăng thêm nhiều năng lượng tâm linh cảm ứng.
A Nan, thế nào gọi là điên đảo về chúng sinh? Do cái tâm bản tính là minh và tính minh ấy viên mãn cùng khắp, nên nhân tính minh phát ra hình như có tính; mà vọng kiến nhận là có tính sinh ra, từ chỗ rốt ráo là không, lại thành rốt ráo là có. Có cái sở hữu như thế, là do phi nhân làm nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cỗi gốc. Rồi gốc nơi cái vô trụ đó, mà kiến lập ra thế giới và các chúng sinh.
Vì mê, không nhận được tính viên minh sẵn có, nên sinh ra hư vọng, tính hư vọng không có tự thể, không phải thật có chỗ nương đứng. Cầu muốn trở lại chân tính, thì cái muốn chân đó, đã không phải là tính chân như chân thật. Cầu trở lại không đúng chân lý, thì hiện thành ra những phi tướng: không phải sinh gọi rằng sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.
Xoay vần phát sinh và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo, đồng nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó, mới có điên đảo về chúng sinh.
A Nan, thế nào gọi là điên đảo về thế giới? Do có cái sở hữu đó, nên từng phần, từng đoạn giả dối sinh ra, vì thế mà không gian thành lập; do phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ nên dời đổi mãi, không an trụ, vì thế mà thời gian thành lập. Ba đời bốn phương, hòa hợp can thiệp cùng nhau, chúng sinh biến hóa thành 12 loài. Vậy nên trong thế giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tính, do đó, 12 cách đối hiện xoay vần mãi mãi. Vậy nên trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột, đến 12 lần xoay trở lại.
Dựa trên những tướng điên đảo, xoay vần đó, nên trong thế giới có những loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng.
A Nan, nhân trong thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động, nên hòa hợp với khí, thành ra 84.000 loạn tưởng bay lặn, vì vậy, nên có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước: cá chim, rùa, rắn, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra 84.000 loạn tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra 84.000 loạn tưởng nghiêng ngửa, vì vậy, nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước; nhung nhúc, quậy động, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra 84.000 loạn tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong cõi nước; chuyển thoái, phi hành, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng, nên hòa hợp với trước, thành ra 84.000 loạn tưởng tinh diệu; vì vậy, nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước; hưu cửu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc, nên hòa hợp với ám, thành ra 84.000 loạn tưởng thầm ẩn, vì vậy, nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hòa hợp với ức, thành ra 84.000 loạn tưởng tiềm kết; vì vậy, nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước; thần quỷ tinh linh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, nên hòa hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn tưởng khô cảo; vì vậy, nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước; tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hòa hợp với nhiễm, thành ra 84.000 loạn tưởng nhân y; vì vậy, nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước; những giống thủy mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tương dẫn luân hồi, điên đảo về tính, nên hòa hợp với chú, thành ra 84.000 loạn tưởng hô triệu; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng, nên hòa hợp với dị, thành ra 84.000 loạn tưởng hồi hỗ; vì vậy, nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước; những giống tò vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát, nên hòa hợp với quái, thành ra 84.000 tư tưởng ăn thịt cha mẹ; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước; như con thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá kính, ấp quả cây độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy dẫy.
Ấy gọi là mười hai chủng loại chúng sinh [1].
Phần Chúng sanh tiếp tục trong mục Ba tướng tương tục (thế giới, chúng sanh và nghiệp quả) thì nói chung chung, còn phần Hai nhân điên đảo chúng sanh và thế giới này, Đức Phật nói tỉ mỉ chi tiết về nhân điên đảo của 12 loài chúng sanh hơn.
Đức Phật dạy nên biết diệu tính là viên minh, rời các danh tướng, bản lai không có thế giới chúng sanh. Vì nhân vọng có sanh, nhân sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, đó gọi là hai hiệu chuyển y Vô thượng bồ đề và Đại niết bàn của Như lai. Vì do có sanh diệt hư vọng ấy mới có hai chuyển y: chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bàn của Như lai, cho nên Đức Phật mới đặt giáo pháp quyền giáo và thật giáo.
Thế nào gọi là điên đảo về chúng sanh?
Đức Phật cũng như vị thầy thuốc giỏi, bởi vì chúng sanh có bịnh mà ngài mới ban thuốc. Khổ nạn, khổ bịnh của chúng ta là đang biến ra 12 loài. Thế cho nên, Đức Phật mới chỉ ra cho thấy là chúng ta đang ở trong 12 cái điên đảo này.
Chúng ta vừa mới từ bào thai ra tức là ở trong cái điên đảo này ra, chúng ta có khổ nạn như vậy, nên Đức Phật phải đặt giáo pháp. Nói về con đường tu hành, con đường tu chứng này mà có là vì chúng ta có, nên Phật pháp có. Chứ tánh mình vốn viên mãn cùng khắp. Nhân tính minh phát ra hình như có tính mà vọng kiến chấp cho rằng có tính. Thế là từ rốt ráo không mà thành có và cái có này cứ tiếp nối. Như vậy, cái có này từ phi nhân mà làm nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cỗi gốc. Rồi gốc nơi cái vô trụ này mà lập ra thế giới và chúng sanh.
Nay chúng ta cầu muốn trở lại chân tánh thì khi khởi cái muốn chân đó, khiến trở thành không phải là tánh chân như chân thật nữa rồi. Cầu trở lại không đúng chơn lý thì hiện thành ra những phi tướng, bởi vì mình là Như lai tạng diệu chân như tánh, cho nên cái muốn này là một phi tướng. Một cái sai lầm. Tất cả các pháp mình đang sống đây đều là hư vọng cả, không phải sanh, trụ, tâm, pháp mà gọi là sanh, trụ, tâm, pháp.
Xoay vần phát sanh và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo. Đồng nghiệp cảm nhau mà sanh ra nhau, rồi nhân đó lại cảm các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó cảm quả báo có điên đảo chúng sanh.
Thế nào là điên đảo về thế giới?
Do vọng kiến vào các pháp hiện tượng sở hữu đó là thật nên khái niệm từng phần, từng đoạn, dài rộng, diện tích, chu vi, kích thước của hiện tượng bắt đầu giả dối sanh ra. Vì thế mà không gian thành lập. Bởi vì có hiện tượng vạn pháp, đất, nước, gió, lửa ở trong hư không biến đổi, phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ, nên dời đổi mãi nên mới có ngày hôm qua khác, hôm nay khác, ngày mai khác, có quá khứ, hiện tại và tương lai để đánh dấu đo lường sự thay đổi ấy. Do vậy, khái niệm ‘thời gian’ được con người xác lập. Thời gian và không gian được nói gọn là thế giới.
Thời gian có ba (quá khứ, hiện tại và tương lai). Không gian có bốn (đông, tây, nam và bắc). Ba tác động vào bốn: 3 x 4 = 12. Bốn tác động vào ba: 4 x 3 = 12 hoà hợp can thiệp vào nhau, chúng sanh biến hoá thành 12 loài.
Thân mình chính là thế giới, đầu tiên có thân tức là có động, nhân động mà có âm thanh, nhưng có âm thanh mình mới phân biệt hình sắc. Vì có hình sắc nên có hương, nó có cái sự biến chuyển. Có hương nên mới có xúc, nhân xúc mà có vị, nhân vị biết pháp, thành ra biết các pháp phân biệt những sáu trần đó mà thành có tham, sân, si mới tạo nghiệp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tính. Do dó 3 x 4 = 12, 12 cách dối hiện xoay vần mãi mãi. Vậy nên trong thế gian, những sắc, thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột, đến 12 lần xoay trở lại.
Bốn phương và ba đời này biến hoá thành 12 loài sanh. Chúng ta khởi tham thì lòng tham đó thông cả 10 phương 3 đời vì thế đây dùng đến sự biến chuyển, dùng 3 x 4 để chỉ con số tổng. Chúng ta có ra khỏi cái biến chuyển này đâu, nên có cả bắt đầu, hiện tại và tương lai, chứ đâu có phải chỉ là chuyện quá khứ. Cái điên đảo này mình đã chịu và quen rồi. Hiện tại chúng ta đang ở trong 12 loài này. Nhân duyên sáu cái vọng tưởng, nó làm nhân duyên lẫn cho nhau mà thành hình này là từ sắc mà có hương, rồi từ hương mà có vị... rồi có vạn pháp, có hiện tượng thế giới. Thấy có thế giới tức là chúng ta đã có cái nhận thức điên đảo về mặt sanh diệt hiện tượng thế giới rồi.
Không có cái thấy thì làm sao có hình sắc. Nhân vọng động mà có âm thanh, rồi từ âm thanh ấy mình để ý mình nhìn thì thấy có hình sắc. Thế nên, đây nói là sáu vọng tưởng càn loạn, tức không phải tất cả nó đều như thế. Không phải theo thứ tự, trước hết nó thấy có động, có âm thanh, rồi về sau có sắc có hương. Đây giản dị mà nói như thế, sự thật ra thế giới điên đảo càn loạn nghĩa là không nhất định có thứ nào trước và thứ nào sau. Vì mình có nếm ăn, mình biết có vị ngọt chua, cho nên trong tâm của mình có pháp trần, cho nên nhìn quả xoài là biết nó có vị, vừa chua, vừa ngọt, bởi vì pháp trần trong tâm mình.
Chúng ta có bốn phương. Con mắt thấy tiền khởi tâm tham muốn ăn cắp. Ăn cắp này là ở đằng trước tức thân của chúng ta, nó dung thông khắp thân. Ăn cắp thật ra thì nó ở cái tay. Cái tay bên phải lén lấy tiền, tay đó là thân mình, một cái tội.
Sau khi tạo tội ăn cắp phải làm trâu trả nợ ăn cắp, tức là phải vào bào thai con trâu mẹ thì lúc vào bào thai ấy, mắt thấy sự giao hợp của trâu cái và trâu đực, tâm khởi ham thích, động niệm vướng vào chỗ đó.
Cho nên trong bốn phương, chúng ta có thể ở một chỗ này, mình tạo ác, có cái nghiệp ác ăn cắp như thế. Ở một chỗ khác, mình khởi lòng tùy hỉ việc dâm dục, có cái chủng tử ái nhiễm như thế. Mỗi nghiệp, mỗi nghiệp đan dệt nhau từ cái nghiệp ăn cắp là phải trả nợ ăn cắp, nhưng nó lại thêm nghiệp dâm dục nên vào bào thai, rồi lại còn đầu óc ngu si, cho nên nó phải làm con vật để đền nợ.
Nếu nó giải thoát, nó làm ông thánh thì nó lại đền nợ bằng cách khác. Thế cho nên các nghiệp trong thân của chúng ta trước sau, trái phải, mỗi chỗ nó có mỗi nghiệp, mà mỗi nghiệp ấy nó nhuận nghiệp với nhau, nó hoà hợp với nhau mà thành quả báo. Ví dụ chúng ta có bốn, năm nghiệp: nghiệp ăn cắp, ngu si, dâm dục, nói láo, nghiệp vào bào thai... nhưng nghiệp nào nặng nhất thì mình đi trước.
1. Thế giới đây là thân tâm của chúng ta, là năm ấm hiện tại của chúng ta. Toàn thân, toàn tâm trong vòng luân hồi vẫn có thói quen theo hư vọng. Tất cả các pháp mình đang sống đây đều là hư vọng cả, không phải sanh, trụ, tâm, pháp mà gọi là sanh, trụ, tâm, pháp, cho nên tâm động loạn cứ thế mà luân chuyển. Hư vọng là không sống với sự thật, chân tâm bản tánh của mình, sống trong hư vọng không biết sự thật, điên đảo tạo một cái nghiệp vọng động. Thế nên do trong thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động như thế, hoà hợp với khí, thành ra 84 ngàn loài loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy dẫy.
ì lúc lâm chung vọng động, điên đảo chỉ hoà hợp với hơi khí, nương thở hơi khí thành ra 84.000 loạn tưởng, có loài bay ở trên trời như chim, đại bàng, có loài lặn dưới biển như cá, tôm...
Tỷ căn của con gà mái chỉ lãnh có hơi khí, chúng ta mắc vào hơi khí ấy thì ở trong quả trứng của con gà thành thân gà. Có học đây mới thấy cái biến hoá mà chúng ta chịu ở trong sự vần xoay này. Bây giờ cùng nhau ngồi trong đạo tràng, trong chùa, trong thiền đường đây, chưa biết tương lai ai thế nào và sẽ trở thành cái gì? Có thể thân sau là con gà, con cá, con cua, cái nghiệp báo xoay vần… Phải biết sợ chỗ này mà thành tâm cầu vãng sanh. Tập quen đường đi giải thoát, quen niệm Phật để về cõi Phật. Nguyện lúc lâm chung không ốm đau, để tỉnh táo niệm Phật, đừng có những vọng động điên đảo này.
2. Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, hoà hợp với tư, thành ra 84 ngàn loạn tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước; người, súc sanh, rồng, tiên, các loài đầy dẫy.
Đây là thói quen tạp nhiễm mà toàn thân đều điên đảo về dục, tức điên đảo tạo một cái nghiệp dâm dục là nghiệp chính để mà có quả báo. Mỗi loài theo các nghiệp nặng nhẹ khác nhau nhưng nghiệp chính là dâm dục thì thuộc nhóm ngang dọc này. Nếu có nghiệp nặng thì chun vào thai loài súc sanh, trâu bò, chó mèo...; nghiệp nhẹ hơn vào các loài tiên cảnh. Loài người do tu phép trường sanh mà thành tiên, như thế tiên cũng thuộc loài người; nghiệp không nặng không nhẹ thì vào thai người. Lâm chung thấy chất tinh ướt của cha mẹ, khởi ham thích tinh cha huyết mẹ ấy nên mắc vào bào thai. Tùy nghiệp tạm nhiễm thành ra 84 ngàn loạn tưởng ngang dọc đều chính là ở tại tâm của chúng ta. Loài người, tiên, súc sanh, loài rồng là những loài từ bào thai mà ra.
Vậy chúng ta muốn thoát chuyện bào thai, thì đừng có gặp cái gì cũng ưa, cái gì cũng ghét. Dĩ nhiên đừng tạo dâm dục là điều quan trọng nhất, không có tạo nghiệp ấy, chừa cái thói tạp nhiễm, chính tâm tạp nhiễm ấy mà chúng ta vừa ở bào thai ra.
Do thế giới tạp nhiễm, tạp loạn thấy gì cũng thích, như thấy hoa cúc thì thích, rồi thấy hoa lan thì thích lan, vướng cái này thích cái này, tiếp xúc cái kia thì thích cái kia cho nên gọi là tạp nhiễm. Nhân đó mà vào bào thai thì đây gọi là dục điên đảo. Nhiễm là dính mắc. Nhiễm nặng nữa thì gọi là ái, mà ái nặng nữa thì gọi là dục, nghĩa là bị nhiễm mạnh lắm đấy, là nghiệp vào bào thai rồi.
3. Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, hoà hợp với noãn, thành ra 84 ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa; vì vậy nên có tế thì thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc, quậy động, các loài đầy dẫy.
Đây Đức Phật đã cặn kẽ chỉ ra để chúng ta giữ gìn đừng có vướng mắc, đừng để tư tưởng vướng vào những cảnh sáu trần. Nhân thế giới chấp trước luân hồi. Chấp là nắm lấy, tức là vướng mắc vào, tức là vẫn có thói quen chấp cái này là đẹp, là xấu; chấp cái kia là hay, là dở. Cứ chấp thủ như thế và vướng mắc vào chỗ mình đã chấp. Cái gì mình yêu thì mình vướng vào và cái gì mình ghét thì mình cũng chấp thủ, thế thành ra nó tạo nghiệp, ở đây gọi là tạo nghiệp su phụ.
Trong luật Sa-di dạy có chú sa-di thích ăn sữa. Sau khi chết biến thành ra con bọ, con trùng ở trong hộp sữa đó.
Như thế ghiền trà, ghiền café thì cẩn thận không khéo thành con dòi trong cây café. Những vị nào ghiền cái gì thì làm con bọ cái ấy. Một vị trụ trì, làm chủ ngôi chùa, chỉ vì thích một khóm mía hàng ngày chăm sóc trông nom tưới tẳm, ưa thích khóm mía cho nên lâm chung thành ra con sâu ở trong khóm mía.
Một người đàn bà gục bên cạnh xác chồng khóc. Người chồng trong lúc hấp hối thần thức đang bất định, thêm vào đó bởi vì có chỗ lưu luyến yêu thương với vợ, thấy bà khóc thảm thiết nên động lòng thương, đi không đành, bèn hoá thành con sâu gá vào lỗ mũi của bà vợ, tức tinh thần ông chồng thành con sâu. Tất cả không ra ngoài sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Người chồng trông thấy hoặc nghe tiếng vợ khóc, thế là lãnh thọ mà có thọ là có tưởng, là mắc ngay vào. Những vị đặc biệt ưa thích cái gì, bởi vì cái ưa thích là cái hèn, cái tầm thường, thì sẽ làm con trùng thấp hèn ở những cái mình đang ưa thích. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh cứ tiếp tục.
Thế nên, hễ mình ưa thích vướng mắc một điều gì thì kẹt ở chỗ đó, đó là chấp trước luân hồi. Thói quen chấp trước luân hồi. Chúng ta tạo cái nghiệp, chúng ta su phụ và thích cái nào thì mình đầu thai vào đó. Gặp khí ướt thành con sâu, ở cái chỗ ấy tức ưa thích hợp với cái chỗ đó thích ăn sữa thì thành con sâu trong sữa, ông thầy thích ăn mía thì thành con sâu trong mía. Có thế thôi nhẹ nhàng như không mà thành tinh thần của mình bị chuyển đi trong những đường luân hồi thật bất ngờ.
Các loài sâu bọ nhung nhúc này gọi là 84 ngàn loài phản phúc. Phản là ngược và phúc là lật lại. Loài bọ di chuyển bằng cách lật úp xuống (giống em bé mới sanh lật qua lật lại). Phúc là bàn tay chân úp xuống là phúc. Có các loài loạn tưởng ngang dọc, có loài loạn tưởng bay loạn, còn đây là loài loạn tưởng phản phúc. Phản phúc là nói về hình tướng, chứ không phải nói về tâm địa, không phải là nói về tâm địa phản phúc mà nói về thân, về hình tướng, về cách thức di chuyển.
Theo như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật chỉ ra chân tâm bản tánh của mình hiển lộ ở tánh thấy, nghe, hay, biết. Xin an định vào tánh thấy, nghe, kiến, tinh nguyên minh, lấy đấy làm chỗ nương tựa. Đối với sáu trần bên ngoài, không khởi ham thích một thứ gì bởi lẽ có nhiễm là có vướng mắc. Chúng ta gặp cái bánh kem là thích cái bánh kem, gặp quả dưa hấu ngọt thì ham quả dưa ngọt, bây giờ tập thảnh thơi đừng ưa thích cái gì, dùng tự tại, ai cúng món gì ăn món nấy, không khởi tham vướng.
Chung quy cũng chỉ ở tâm chúng ta vướng mắc vào sáu trần. Bởi mình có thói quen đã tạp, đã nhiễm nên tạo cái nghiệp dâm dục, đó là nghiệp chính để đi đầu thai. Bây giờ mình muốn tránh đừng xảy ra cái lục dục, thì tập luyện cho cái tâm của mình đừng tạp nhiễm, su phụ điên đảo.
Phần đầu kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật đã nói tất cả chúng sanh luân hồi sanh tử bởi không biết tịch thường tâm tánh, không biết an định vào cái tịch thường tâm tánh của mình khiến sáu căn vướng mắc sáu trần.
Chúng ta có sáu cửa để vướng mắc, vì nghe âm thanh, ngửi hương, có thể cũng vì vị trần, mà cũng có thể chỉ cần nhớ đến pháp trần, nhớ đến một trần là vướng rồi.
4. Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hoà hợp với xúc, thành ra 84 ngàn loạn tưởng mới cũ, vì vậy, nên có như có yết nam hóa sinhtrôi lăn trong cõi nước, chuyển hoá, phi hành, các loài đầy dẫy.
Như con tằm ở trong cái kén mọc cánh, nó chui ra nó bay đi. Hoà hợp với xúc mà vào cái trứng của con tằm, vào quả trứng của con sâu, con sâu mới biến con tằm bay đi, những ý này chúng ta không biết rõ.
Hoà hợp với xúc thì xúc thế nào? Học về các loài sinh vật này mới biết về sinh sản của nó.
5. Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hoà hợp với trước, thành ra 84 ngàn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, hưu cữu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Đần độn chướng tế, không có thông minh, gọi là lưu ngại thế thì gặp chướng tại các nghiệp, tà kiến, chướng điên đảo. Lâm chung thấy ánh sáng, sao lành, sao dữ do đần độn rồi chướng điên đảo, tạo cái nghiệp ví như thờ lửa chẳng hạn. Thế cho nên lâm chung thấy ánh sáng mà thành ra các ông thần tinh minh, giả can, quỷ thần.
Yết nam là cái thai nhưng cái thai không phải bằng đất, nước, gió, lửa.
6. Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc, hoà hợp với ám, thành ra 84 ngàn loạn tưởng thầm ẩn, vì vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, hưu cữu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Tiêu tán là thấy cái gì cũng không hết, thân này chết rồi thì hết chuyện không có nhân quả gì cả, hợp với ám tối bởi vì chấp không, lâm chung gặp ám tối thành ra các loài không tán tiêu trần, số đông là thành các thần hư không vì yết nam vô sắc, vì chấp không, cũng có những vị ở cõi trời vô sắc Tứ không như Phi Tưởng phi phi tưởng xứ, không tán tiêu trần trong cái mù mịt cái không.
7. Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hoà hợp với ức, thành ra 84 ngàn loạn tưởng tiềm kết, vì vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước; thần quỷ tinh linh, các loài đầy dẫy.
Thế giới luân hồi võng tượng, điên đảo về ảnh, tưởng tượng những bóng ảnh không thật. Như ngồi tưởng mình mua gà nuôi, rồi từ từ phát triển thành một đàn gà, bán rồi mua một heo con nuôi, rồi từ từ được một đàn heo. Rồi chúng ta bán, mua con bò mẹ, bò mẹ đẻ bò con, từ từ thành một đàn bò. Tưởng như thế gọi là vọng tưởng với bóng ảnh. Thế khi lâm chung do nhớ nghĩ những bóng ảnh đó từ trong ký ức, điên đảo về ảnh thì số đông chết thành quỷ thành ma.
Do tà kiến khiến làm chướng, nhân thế giới vọng tưởng luân hồi, bóng ảnh điên đảo, chúng ta tưởng là thật. Thật ra, mình chẳng bao giờ mình thấy hình thật, mà chỉ thấy cái bóng do ánh sáng mặt trời phản chiếu bóng ảnh nơi thân kinh của con ngươi mà hiện chiếu bóng ảnh lên và theo nghiệp làm người chúng ta biết đây là hoa cúc tím. Hàng ngày chúng ta sống bằng những hư vọng như vậy, ở lưỡi, ở thân, những cảm giác thơm ngon, chúng ta đâu có sống với sự thật mà chỉ sống bằng cảm giác, những cái vang ở trong thần kinh biến ra sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, chính mình y vào thần kinh mà biến ra sáu trần.
Cả đời mình sống trong vọng tưởng như vậy. Bóng ảnh điên đảo nắm lấy một điên đảo vọng tưởng nào đó, cái đó gọi là bóng ảnh điên đảo. Bóng ảnh là nhớ đến, chúng ta nhớ đến mẹ, nhớ đến người thương, người ghét, toàn là nhớ đến những bóng ảnh vọng tưởng, cho nên số đông loài người này sau khi chết thành ma quỷ.
8. Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, nên hoà hợp với ngoan, thành ra 84 ngàn loạn tưởng khô cảo, vì vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước; tinh thần hoá làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy dẫy.
Nhân thế giới u độn luân hồi, không tuệ, thành ra đần độn, hợp với ngoan không, ngu ngơ nên khi chết liền biến thành cây la, cây tùng, đất, đá, vàng tức thấy mình là rừng cây, đống đất, khối vàng, cục đá khô khan.
9. Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hoà hợp với nhiễm, thành ra 84 ngàn loạn tưởng nhân y, vì vậy nên có yết nam không phải có sắc mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước; những giống thủy mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy dẫy.
Do thế giới tương đãi luân hồi, có thói dẫn dụ đưa người ta vào điên đảo, tạo nghiệp độc ác, trái với lương tâm, không hợp với lẽ phải, cho nên chịu quả báo nên thành thân không phải có sắc mà có sắc ví như làm thân con sứa nó mắc vào bọt nước lấy bọt nước mờ mờ không phải sắc mà có sắc thành thân.
Thế nào là tương đãi luân hồi? Đợi chờ người khác làm cho mình ăn cho nên gọi là tương, tương đãi. Ngụy điên đảo: già, bé, lớn, nhỏ đều tìm cách đánh lừa người ta.
Gian trá đánh lừa người ta khiến người ta chịu những khó khăn để mình hưởng cái tốt, nên lúc lâm chung là hợp với nhiễm thành thân. Đây nói con sứa, nó nhiễm, nó vướng vào bọt nước làm thân. Nó không có thân, nó lấy bọt nước làm thân. Có 84 ngàn loài loạn tưởng (các loài đầy dãy) như thế, những người dân biển thường thấy loại này.
Chúng ta nương tựa vào vật khác mà thành thân, cho nên gọi là do nhân ấy nó thành quả. Như con sứa nó nhiễm với bọt nước mà thành thân nên gọi là nương tựa (nhân y). Nó loạn tưởng, vì nó cũng đâu có biết gì, tâm cứ vướng mắc bừa bãi, gặp vướng thì thành thân, chứ nó không biết rõ. Thân sứa màu trong vắt trông như nước biển không có gì khác cả. Thật ra, nó cũng có vài vân đo đỏ chứ không phải như màu trắng trong. Mình nhìn khó nhận ra, nhưng khi nó động đậy chạm vào chân mình, mình biết có con vật gì đang bám vào chân. Thân của sứa trong suốt như nước biển.
10. Nhân trong thế giới có tương dẫn luân hồi, điên đảo về tính, nên hoà hợp với chú, thành ra 84 ngàn loạn tưởng hô triệu, vì vậy nên có yết nam không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước; chú trớ, yếm sanh, các loài đầy dẫy.
Thế nào là tương dẫn luân hồi? Có những người thông minh lắm mà vẫn bị người ta đánh lừa do bùa chú hay hô triệu. Do nghiệp dẫn dụ người ta, xúi dục người ta, định tâm là lừa lọc cho nên gặp quả báo là bùa chú, hô triệu làm mình sập bẫy.
Tại sao không phải vô sắc mà vô sắc? Âm binh nó có hiện diện mà mình không thấy, nhờ bùa chú ấy nó mới hiện lên, chứ không phải những bùa chú này tạo nên những âm binh. Bùa chú này hô triệu những âm binh. Âm binh có sẵn ở các cây cỏ sông núi, chỗ nào cũng có sẵn những vong linh, âm binh này, nhưng mà không hiện lên được, bùa chú gọi, nó mới hiển linh. Bùa chú năng động nên mới biết có vong linh ấy, có những tinh thần ấy đang bám ở những chỗ mờ mịt.
Những thầy ngải, thầy bùa, họ nói chuyện với ma quỷ được, họ có phương pháp, thần chú bí mật của họ. Người chuyên chữa tất cả bịnh về rắn cắn có những thần chú về hô triệu rắn. Nếu đúng nửa đêm, họ trì thần chú nào đó để triệu rắn thì nhiều rắn sẽ từ các phía tụ về dưới chân vị đó.
10. Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng, nên hòa hợp với dị, thành ra 84 ngàn loạn tưởng hồi hổ, vì vậy nên có yết nam không phải có tưởng mà có tưởng,trôi lăn trong cõi nước; những giống tò vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy dẫy.
Hợp vọng là cứ vơ lấy làm mình, gọi là mình, bởi vì không phải mình mà nhận làm mình nên gọi là vọng, không phải là của mình mà cứ nhận lấy làm của mình, bắt con người ta nhận làm con mình... Đây gọi là hợp vọng.
11. Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát, nên hoà hợp với quái, thành ra 84 ngàn tư tưởng ăn thịt cha mẹ, vì vậy nên có yết nam không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước; như con thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá cánh, ấp quả cây độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy dẫy.
Man muội: man là dối trá tức không phải của mình mà nhận làm mình.
Thế nào gọi là con thổ kiêu? Nó cưu mang một hòn đất và cứ tâm tâm niệm niệm hòn đất này làm con nó. Ấy thế mà hòn đất hóa làm con chim thật. Tâm tâm nghĩ đây là tâm mình mà hóa thành con chim, cho nên gọi là hợp với quái dị, chứ nó không phải là cái bình thường. Mẹ nó muốn nó lớn, nhưng khi nó lớn, nó ăn thịt luôn mẹ nó, cho nên gọi là yết nam vô tưởng mà không phải là vô tưởng.
Cục đất là vô tưởng ấy thế mà hóa thành con chim. Con chim lớn lên rồi ăn thịt cha mẹ. Con chim Phá cánh cũng thế không có ấp hòn đất, nó ấp trái cây độc và trái cây hoá thành con chim, chẳng những có tinh thần biết ăn uống, cũng mọc lông, mọc lá, có tay, có chân, có cánh tử tế nên gọi là những loài quái gỡ.
Thế nào là thế giới oán hại luân hồi? Đem cái lòng oán hận tức là các bậc ân nhân như cha mẹ mình, bây giờ mình đem lòng oán hại tạo cái nghiệp sát, đạo, dâm, đem cái oán mà đáp cái ân để đến nỗi giết cha giết mẹ, giết các bậc ân nhân, cho nên gọi là sát điên đảo. Vì vậy mới có các loài quái gỡ này. Chim quái gỡ nên nó ăn thịt ngay mẹ nó, nó có thần thức nên nó chuyển biến cái cây thành con chim, thành con chim Phá cánh. Đây là những loài oán hận cha mẹ, ăn thịt các bậc ân nhân mà đây Đức Phật nói các loài này đầy dẫy, những loài quái gỡ này đầy dẫy mà mình không biết, tức cái cực ác đầy dẫy thế gian.
Tránh đi cái tâm oán hại, ngoan cố, nham hiểm. Ngoan là si chấp. Hiểm là độc địa. Nham hiểm hai chữ ấy là tỏ cái tâm của mình, độc ác, nó lại không có chỗ thẳng thắn, không có bộc lộ ra ngoài, còn có chỗ che dấu được. Người nham hiểm là người ác, là nhân địa ngục. Sau làm kiếp quỷ, cổ độc quỷ chịu vô cùng khổ sở, rồi lên làm sâu độc, thú độc do ảnh hưởng tâm độc của mình.
Bên Ấn độ có loài sâu người ta đặc biệt dùng làm thuốc độc. Loài sâu này là loài có chất độc trong thân. Bởi do nóng giận, hiểm ác rồi về sau thành bàng sanh thành những con sâu có chất độc ở trong.
Bài này nói về 12 nhân để sanh 12 loài, trong tâm mình cả ngày phần thế (ba đời) và phần giới (10 phương) đều có những vọng tưởng này, có 12 thứ này. Cha con, anh em lớn lên ăn thịt mẹ mà đây Đức Phật nói các loài đầy dẫy mà mình không biết thế thôi.
Bài này rất là quan trọng vì tâm niệm hàng ngày chúng ta đang đi về 12 nhân để sanh ra 12 loài. Trong tâm chúng ta cả phần thế và phần giới đều có những vọng tưởng này, có 12 thứ này, cho nên chúng ta ngay trong thân này mà mạnh về chủng tử nào, khi tan thân này thì niệm cuối cùng sẽ thuộc về loài đó thì là đi về đường ấy. Cho nên chính bài này rất hay. Chúng ta cẩn thận phải soi tâm mình, cẩn thận từng niệm, bây giờ cứ tập theo nhiễm một lần, rồi hai lần, riết nó thành thói quen.
Thói quen dần dần nó thành tánh nết. Lúc lâm chung chợt có một niệm gì thì nghiệp ấy hiện lên, ấy thế là mình lôi mình vào trong loài đó. Hiện tại chúng ta vừa ở trong bào thai đi ra tức là ở cái số hai (loài thai sanh trong 12 loài).
Chúng ta đang ở trong đường này cho nên pháp môn tịnh độ mới khuyên chúng ta tập niệm Phật nhiều cho tâm mình quen, để lúc nào tâm mình cũng nhớ Phật, niệm Phật, cầu vãng sanh để ra khỏi mạng lưới 12 loài nguy hiểm này. Chính là chúng ta đang ở trong cảnh này. Chúng ta vừa ở bào thai ra với những chấp trước biến dịch, những lưu ngại tà kiến là tâm thể vọng động. Chúng ta có đủ những thứ này, những chủng tử này, chúng ta có đủ hết trong tạng thức, cho nên tập hàng ngày phải tập đổi lại hoặc là niệm Phật hoặc là tu thiền.
Tu thiền thì sáng suốt ngay lúc sáu căn gặp sáu trần không theo khách mà làm chủ nhân ông nghĩa là suốt ngày giác tỉnh. Nếu chúng ta không thể suốt ngày giác tỉnh sáng suốt được thì tập thói quen niệm Phật ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ để cứ nhớ đến Phật, tập mãi thì thành thói quen.
Thói quen ấy là thói quen giác tỉnh thì nó giải thoát những nguy hiểm này. Tập hàng ngày thì lúc lâm chung ấy may ra mới hy vọng những thói quen niệm Phật gạt đi những loạn tưởng này ra, cho chúng ta vãng sanh về cõi Phật. Cho nên các tổ khuyên chúng ta hàng ngày chịu khó niệm Phật để tập cho nó thành thói quen. Với thói quen ấy, may ra lúc lâm chung thì niệm cuối cùng của mình là niệm Phật về với Phật.
Chúng ta hiểu nhận được đi về cõi Phật là giải thoát vòng 12 nhân này. Hiện nay chính là chúng ta đang ở trong 12 vòng này, cho nên bài này rất quan trọng. Chúng ta chịu khó ngẫm nghĩ suy xét, rồi phổ biến lưu thông để tất cả cùng biết với ước mong tất cả thoát màn lưới nguy hiểm này.
Nguy hiểm là cái đầu tức sanh tướng vô minh. Nếu mình nắm được cái đầu thì coi như mình nắm được tất cả. Con rắn vô minh nó dài từ vô thủy đến giờ. Chúng ta nắm được cái đầu vô minh là biết vọng trần chứ chẳng có gì khác, chúng ta cứ quay về hiện tại. Cái hư vọng này là cái gì? Tánh giác vốn minh cho nên bây giờ mới dạy chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Trở về mình là tánh giác, tánh Phật. Tánh chúng ta vốn đầy đủ rồi, trở về sống với chân tâm bản tánh. Còn cái gì giản dị hơn sao chúng ta lại không chịu như vậy. Chúng ta không ai chịu sống với tánh A-di-đà sẵn có của mình.
Chúng ta không chịu ngồi yên ổn làm ông Phật, mà chúng ta cứ phân biệt, cứ có cái thói thích thấy, thích nghe, phải đi du lịch đi chơi, chúng ta cứ thích mua thêm việc vào thân. Tâm nó cứ động, mình cứ phải phân biệt, an định ở cái tánh Phật của mình. Vậy thì cái vọng không có gì khác qua phân biệt.
Cái bản tánh của mình là Phật, mà lại không để tâm đến. Sáu căn chạy theo sáu trần, cái hư vọng, thế là hóa ra lầm lỗi mà cái tâm lầm lỗi này nó mở màn cho cả một trời si mê từ vô thủy tới giờ không cản được và nó càng chảy thêm. Mở ra bao nhiêu nghiệp sát đạo dâm vọng, cứ kéo dài mãi đường luân hồi cho đến giờ mà chúng ta vẫn chưa chịu tỉnh ra, mà cái lỗi lầm không đâu xa, không phải cái gì khác, ham phân biệt, chạy theo sáu trần, lỗi là chỉ ở chỗ ấy thôi. Một khi cái cảnh đã lù lù trước mắt, đã có cái sắc tức là mình phải có cái thấy, tức sở đã có thì đồng thời phải có năng, trước mắt phải có cái thấy để phân biệt cảnh.
Tóm lại, 12 loài là:
1. Noãn sanh
2. Thai sinh
3. Thấp sinh
4. Hóa sinh
5. Hữu sắc
6.Vô sắc
7. Hữu tưởng
8.Vô tưởng
9. Không phải có sắc mà có sắc
10. Không phải vô sắc mà vô sắc
11. Không phải có tưởng mà có tưởng
12. Không phải vô tưởng mà vô tưởng
Mỗi một trong 12 loài này lại có 84.000 loài này đầy dẫy, mà giờ bảo chúng ta tìm một loài chúng ta cũng không tìm được.
Hãy an định vào căn bản bồ đề của thức tinh nguyên minh, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật, giữ tâm định lại. Đừng để nó cứ gặp duyên nó biến hoá, thành ra 12 loài như thế này, chuyên tâm tu hành là cái cần yếu. Nhất tâm an định vào căn bản bồ đề luyện cho tâm chúng ta thành một khối, đừng để cứ biến hoá 12 loài như thế này quá hảo huyền. Một khi đã làm con bướm, con sâu thì khó đi lên cho nên phải biết sự nguy hiểm.
Bây giờ làm người có nhiều khả năng để giải thoát. Trong nghiệp làm người này, chúng ta có nhiều cơ hội để vượt khỏi cửa ải, qua cái khó khăn này. Nếu mất thân người mà đọa trong 12 loài thì khó lên.
Đây là những lời dạy của Đức Phật. Nghe lời ngài nói mà nhận ra chứ chúng ta làm sao biết được những chuyện này. Ngài nói như vậy thì chúng ta biết như vậy. Đây là Nhất thiết chủng trí tức trí tuệ thông biết tất cả chủng tử mọi loài của Đức Phật.
Kết Luận về Bản Nhân của Điên Đảo để Khởi Mối cho Ý Nghĩa Tiệm Thứ Tu Tập:
“A Nan, như thế, chúng sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ điên đảo. Cũng như dụi con mắt, thì hoa đốm đủ thứ phát sinh ra, chân tâm diệu viên trong sạch sáng suốt mà điên đảo, thì đầy đủ những tư tưởng càn loạn giả dối như vậy. Nay, thầy tu chứng Tam ma đề của Phật, thì đối với những tư tưởng càn loạn, làm nguyên nhân cỗi gốc của các điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được, cũng như, trong khí mãnh trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các thứ chất tro, chất thơm rửa sạch khí mãnh rồi, về sau, mới đựng nước cam lộ”.
Khai Thị Ba Tiệm Thứ:
“Thế nào gọi là ba tiệm thứ? Một là tu tập, trừ các trợ nhân; hai là chân tu, nạo sạch chính tính; ba là tăng tiến, trái lại hiện nghiệp”.[1]
Chúng sanh trong mỗi loài đều có đủ 12 thứ điên đảo này, như bị nhặm mắt thì thấy đủ loại hoa đốm 12 màu. Chân tâm vốn thanh tịnh sáng suốt nhưng do điên đảo thì biến ra đủ loại vọng tưởng càn loạn giả dối. Nay Phật khuyên A-nan nếu phát tâm tu chứng Tam-ma-đề của Phật, nên thực tập ba thứ tiệm thứ này.
Tiệm có nghĩa là dần dần, tu dần dần, học hiểu dần dần và chứng đắc dần dần từ quả vị thấp đến quả vị cao.
Đốn là nhanh chóng, thẳng tắt vượt bậc. Như tu thiền tông hoặc nghe pháp liễu nghĩa đại thừa, bậc thượng căn liền tỏ ngộ một cách sâu sắc, không bị sự phân vân đấu tranh trong quá trình nhận thức chân lý. Do đó, sự giải thoát giác ngộ vượt bậc không bị hạn cuộc bởi thời gian ‘khảy móng tay lên bậc vô học’.
Còn ở đây ngài dạy chúng ta từ sơ tâm cho đến thành thánh quả có ba thứ học từng thứ lớp và đi dần dần (tam tiệm thứ). Ví như một cái bình từ vô thủy đến giờ đựng tham, sân và si. Nếu bây giờ muốn thành một pháp khí để chứa đựng Phật pháp, để thành Phật, thì việc đầu tiên là phải súc bình, dùng chất thơm rửa sạch bình rồi mới đựng nước cam lộ nghĩa là phải dùng ba tiệm thứ này để rửa thân tâm của mình. Ba thứ này là:
1. Trừ trợ duyên sanh tử.
2. Khoét tánh phàm phu tức là giữ giới.
3. Trái với nghiệp hiện tiền.
Ngoài thì trừ duyên, trong thì giữ giới, không buông lung theo tánh phàm phu nữa. Tu ngay sáu căn, nghiêm hộ ngay sáu căn, ngay khi gặp cảnh, để ý cái tâm, hộ không cho tham, sân, si nổi lên. Đó là đạo nghiệp của bậc chân tu.
Tiệm thứ nghĩa là số một mình làm được rồi thì lên đến số hai rồi đến số ba. Dĩ nhiên chúng ta đi thấp nhất rồi lên nấc hai, rồi lên nấc ba. Ngôi nào cũng thế từ thấp đến cao, hẹp đến rộng, cứ thế từ từ thứ lớp trừ cái duyên, tránh cái nhân rồi tu ở sáu căn cho đến ngày thành Phật chỉ tu ba việc này nên gọi là ba tiệm thứ.
TRỪ CÁC TRỢ DUYÊN SANH TỬ
Thế nào là trợ nhân?
A Nan, 12 loài chúng sinh đó trong thế giới, không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà an trụ, nghĩa là, nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực; vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh, đều nương với cái ăn mà an trụ.
A Nan, tất cả chúng sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết; vậy, các chúng sinh, cầu Tam ma đề, nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay nầy, ăn chín, thì phát lòng dâm, ăn sống, thì thêm lòng giận. Những người ăn rau cay đó, trên thế giới, dù biết giảng nói 12 bộ kinh, Thiên tiên 10 phương, hiềm vì nó hôi nhớp, đều tránh xa cả; các loài ngạ quỷ v.v... nhân trong lúc người kia ăn rau cay, liếm môi mép của người đó; người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phúc đức ngày càng tiêu, hằng lâu không được lợi ích. Người ăn rau cay đó, tu phép Tam ma đề, Bồ Tát, Thiên tiên, Thiện thần thập phương không đến giữ gìn ủng hộ; Đại lực Ma vương được phương tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết pháp cho người kia, chê phá cấm giới, tán thán dâm dục, nóng giận, si mê; đến khi mệnh chung, tự mình người ấy làm quyến thuộc của Ma vương; khi hưởng thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô Gián.
A Nan, người tu đạo Bồ đề, phải đoạn hẳn năm thứ rau cay; ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất [2].
Ăn lành thì sống, ăn độc thì chết. Mình có thích những nguy hiểm này cho nên đây Đức Phật mới minh bạch nói rõ sự thật nguy hiểm là như thế nào. Như con nít bảo cấm đừng ra nắng nhưng nó lại thích ra nắng, bởi nó mê, nó không biết phân biệt. Cũng thế chúng ta không biết nên đây Phật dạy những chỗ có rau cay (hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ) thì hộ pháp với chư thiên ít ở đó, thường là nơi của các quỷ có mặt.
Chúng ta đừng đến chỗ rau cay, ăn rau cay vì mình đến và tiếp xúc hoặc ăn dùng chỗ đó thì thông thường mình gặp ma quỷ. Vì ma quỷ thích ngửi, ưa mến năm món hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ, nên người ăn ngũ tân này là quyến thuộc của ma, cùng với ma quỷ ở chung một chỗ và khiến vị này phúc đức ngày càng tiêu, hằng lâu không được lợi ích.
Duyên là rau cay mà tham, sân, si là nhân. Tránh duyên để cho tham sân đừng bật ra. Tham, sân, si thật ra không phải là duyên mà nó là gốc. Tránh duyên để cho những cái gốc đừng bật ra, tức tránh năm thứ rau cay bởi vì ăn sống thì nổi sân, ăn chín thì nuôi lòng dâm dục, vì vậy tránh duyên không ăn những thứ này. Người nhập vào chánh định phải dứt bỏ năm thứ rau cay này. Dù pháp sư có giảng thuyết 12 bộ kinh, nhưng còn dùng ngũ tân, thì hộ pháp, tiên, chư thiên tránh xa không đến, còn ma quỷ thì đến gần liếm môi liếm mép. Vì bản chất ma quỷ là một loại chúng sanh hay thích làm những điều ác, cho nên Đức Phật khuyên chúng ta không được dùng những thứ này giống chúng ma quỷ.
Đức Phật chỉ đưa ra một thứ trợ duyên là năm thứ rau cay, chứ thật ra chúng ta có không biết bao nhiêu nhân duyên xung quanh đều là những trợ duyên đưa đến sanh tử. Những việc không có lợi ích cho sự tu hành, phá rối thì mình đều phải trừ hết, chứ không phải chỉ có rau cay. Cả đời sống của chúng ta ở trong gia đình, xã hội, bao nhiêu thứ duyên để cho tâm của chúng ta bật ra tham, sân. Khi tâm của mình bật ra tham sân thì đó là tướng, là gốc của ngu si, tưởng thật nên nổi tham sân.
Bây giờ phải tránh những duyên, bởi vì duyên khiến cho mình huân tập. Mình biết cô đó ghét mình, không thích mình, mỗi khi cô trông thấy mình, cô có những dáng điệu khiêu khích, cô có những lời nói chát chúa, inh tai, nhức óc thì mình sẽ nổi sân lên. Biết cô đó có chỗ ác ý đó thì mình nên tránh đi, chứ đừng nghĩ không cần, ta cứ đối đầu, cứ đi trước mặt cổ để chọc cổ, gợi thù oán lẫn nhau thì không nên, phải tránh duyên đi để nhẹ nghiệp cả hai.
Những người nói nhiều hay tranh cãi khiến trong chúng không được bình an thì phải ra ngoài chúng chứ không ở trong chúng được. Kêu ra ngoài chúng là trừ trợ duyên khiến cho trong chúng được bình an tu hành.
Chúng ta phải cẩn thận, không những chỉ để tránh năm thứ rau cay mà sáu căn gặp sáu trần, tâm của chúng ta phải cẩn thận tránh duyên, đừng để những tham, sân, si sanh khởi.
Thế nên, đầu tiên Đức Phật dạy chúng ta phải rời cha mẹ vào chùa, đó là tránh duyên. Bởi vì ở nhà bố mẹ thương quý con, bao nhiêu cái hay cái tốt vơ về con rồi, mà hễ trái cho con mình thì sân giận. Chính tình thương yêu của cha mẹ là cái gốc để cho mình bật cái tham sân lên và tăng trưởng ngã ái.
Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta phải xuất gia, chính là tránh cái duyên sanh tử, tránh cái duyên tham sân, thế cho nên gia đình, xã hội, tất cả đều là duyên sanh tử. Bởi vì, cha mẹ cho đến tất cả mọi người đang sống trong vòng ‘Hoặc nghiệp khổ’ mê hoặc, không tỉnh. Nếu mình cứ sống với các vị là mình chìm trong vòng ‘hoặc nghiệp khổ’, cho nên phải rời để tỉnh ra. Sau khi tỉnh rồi thì quay về nhắc nhở các vị trong gia đình tỉnh ra. Thế cho nên tránh được những trợ duyên sanh tử.
Cho đến khi xuất gia thì phải cạo đầu. Tóc của mình cũng là một cái duyên để chúng ta khỏi phải sáng vuốt chiều chải, thế nên Đức Phật dạy cắt đứt phăng đi cho xong chuyện. Nên ca dao có câu “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” là vậy. Ở ống mà muốn tròn cũng không được, ở bầu mà muốn dài cũng không được.
Ca dao nói như vậy để nhắc chúng ta đừng coi thường các duyên, nên chọn bạn mà chơi, chứ không có bừa bãi được, thấy những chỗ nào người ta đánh bạc, người ta uống rượu hay cho đến những người hay ưa bới móc kể xấu người này kia thì mình tránh luôn, đừng nghĩ người ta nói kệ việc người ta, không việc gì đến mình mà đây việc đầu tiên là tránh những duyên, cho nên cẩn thận chọn thầy, chọn bạn, chọn chỗ ở.
Chúng ta đang bắt đầu tu nên chúng ta cũng theo tam tiệm thứ này, trong nhà Phật lấy chữ hiếu làm căn bản. Bổn phận đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ coi như đó là cái gốc, đó là nền tảng.
Ấy thế mà Đức Phật bảo, chúng ta rời bỏ gia đình, rời bỏ ‘công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra’, phải từ biệt vào chùa, cắt đứt hẳn nếp sống gia đình, vì nếp sống gia đình còn nhiều duyên ràng buộc, không có nhiều thời gian để lo tu học như đời sống xuất gia. Thế cho nên Đức Phật khuyên bảo người xuất gia phải sống đời sống không gia đình để có nhiều thời gian tu học và để hướng tới đời sống an lạc và giải thoát đích thực cho tự thân và cho tha nhân.
Phải tránh duyên, phải rời gia đình, vào chùa, không được ra ngoài tụ lạc xóm làng, rồi theo cái duyên bắt chước sống giống người tại gia. Người xuất gia trân quý đời sống không ràng buộc gia đình thì họ có nhiều hoa trái an lạc và giải thoát, họ có nhiều thời gian tu tập và hướng dẫn người tu tập, họ phải sống môi trường tốt, một môi trường tập thể để có nhiều cơ hội làm mới và xây dựng tình huynh đệ lâu bền.
Các bậc Cổ Đức nói minh bạch ‘Hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn’. Con hổ hung mạnh mẽ lắm nhưng nếu nó lìa chỗ sơn lâm của nó thì nó sẽ bị người bắn chết. Người xuất gia sống không gặp môi trường tu học tốt, phần lớn họ thất bại nhiều hơn là thành công trong việc tu học và hiếm có cơ hội hướng dẫn đời sống tâm linh cho mọi người.
Tại làm sao bắt buộc phải ở trong chúng? Ở trong chùa, ngã ái, ngã chấp sẽ được mài dũa. Tuy học kinh điển nhiều, nhưng chấp ngã, ngã kiến vẫn ngấm ngầm ở trong tạng thức, cho nên mình dễ tha thứ cho mình, dễ bỏ qua những tâm niệm, chủng tử xấu của mình, cho nên phải có bạn đồng phạm hạnh ở đằng trước đằng sau, có người bên trái bên phải, trăm con mắt người ta ngó lại mình, người ta bắt mình phải sửa những sai sót.
Thế cho nên phải nhờ thầy, nhờ bạn mà chúng ta gột rửa được những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Những tâm này thường ngấm ngầm và tẩm độc trong lời nói, việc làm, ý nghĩ sẽ hiển lên ở hình dung, sắc tướng, từng cử chỉ, từng cái đưa mắt, từng cái mỉm cười, từng bước đi của chúng ta. Nó hiển lộ những cái độc ở trong tâm của mình thì những cái ấy phải nhờ những con mắt bên ngoài, người ta trông thấy rõ, người ta nhắc nhở và bắt buộc mình phải sửa đổi. Do đó, người ở trong chúng được nhờ chị em. Cho nên, Đức Phật dạy chúng ta là nương tựa lẫn nhau, sám hối lẫn nhau và được dắt dìu lẫn nhau, đời sống lục hoà trong chùa bảo đảm sự thanh tịnh, do đó chúng ta mới tu đến nơi đến chốn được, cho nên Đức Phật nói minh bạch ‘hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn’.
Muốn thành tựu đạo thánh hiền phải nhờ có thầy bạn, mình ở một mình thì nó cũng được chỗ an tĩnh nhưng con đường thánh hiền nhất là đối với những vị còn sơ tâm mới đặt chân cất bước xuất gia, không thể tin cậy ở một mình mà phải nương tựa đức của toàn chúng.
Tóm lại, người tu đạo bồ đề dứt hẳn ngũ tân cũng là cách để tránh duyên cho nhân tham, sân, si khởi. Bởi lẽ chúng ta thường coi thường những duyên, nhưng chính do cái duyên mà nó đưa vào cái nhân, cho nên những cái duyên phải thận trọng lắm.
Nhân đây nói bốn cách ăn, 12 loài chúng sanh nói trên đều phải nương bốn cách ăn này mới sống được. Thế nào là bốn cách ăn:
i. Đoạn thực: Ăn bằng cách từng miếng (bịnh nhân uống súp cà-rốt, cũng ực ực từng ngụm nên cũng gọi là đoạn), từng phần: cho súp vào thẳng đường ruột, thay vì miệng nhai thì nhờ máy xay nghiền giùm nên cũng gọi là đoạn.
Cõi nào có cách ăn đoàn thực? Trời, người, súc sanh.
Ba cõi này dùng:
- Ba trần làm thể là hương thơm, mùi hôi và không thơm hôi.
- Ba vị: ngọt, lạt, chua.
- Chạm: chạm dùng thức ăn hay ngửi từng mãng (đoạn) hương thơm thì no.
ii. Xúc thực: Lấy tâm sở tương ưng của sáu thức làm miếng ăn, tiếp xúc với cảnh vừa ưa thích của ý, yêu thích mừng giận, năm căn thỏa thuận, vui sướng làm cách ăn. Đây là cách ăn của quỷ, tức quỷ thần xúc chạm vào hương thơm của đồ ăn cúng thí mà no.
iii. Tư thực: lấy tư tâm sở hữu lậu của ý thức để chuyên tinh nghĩ nhớ (tư) chẳng dứt, chuyển thành cảnh thắng diệu thiền, giúp ích duy trì thân mạng của cõi trời.
Thiền duyệt vi thực, pháp hỉ vi thực: Trong đời sống hằng ngày, thực tập thiền định, đọc kinh sách, chúng ta nếm được pháp lạc của việc thực tập và chúng ta cảm thấy an vui, hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Đức Phật ngồi thiền 49 ngày không ăn vì sự an lạc của tinh thần tức tư thực duy trì thân mạng.
iv. Thức thực: thức thứ tám nối nhau giữ căn thân khiến chẳng rã hoại. Móng tay ra dài, tóc mọc, tế bào già chết đi, tế bào non sanh ra... đều là do thức thực duy trì và vận hành tiếp tục. Thức thực là món ăn bằng tâm thức. Là người tu tập, chúng ta không nên xem những phim ảnh, sách báo bạo động, không lành mạnh vì đây cũng là những chất không tốt cho thức thực.
Thật ra, bốn thánh sáu phàm chung đủ thức thực này chỉ có khác là mê và ngộ.
Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn sẵn trong sáng gọi là Như lai tạng. Vì nó duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu, phi có, phi không, phi trụ và phi chẳng trụ. Đây là cách ăn bằng cách vốn có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh trụ. Còn như những người sống ở địa ngục sống bằng tâm thức, cho nên cũng gọi là thức thực.
Chúng ta có đoạn thực, tư thực và thức thực. Khi chúng ta ngồi thiền cảm thấy an lạc thì năm hay sáu tiếng đồng hồ vẫn không nhúc nhích, không tê chân, không muốn đứng lên, không thấy đói bụng, mà nhẹ nhàng khinh an thì đó cũng là trạng thái của ý thức, thức thực và tư thực.
Ngay cả đến tứ thiền như sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và tứ không như không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng là thiền duyệt vi thực, tư thực tức dùng định lực duy trì mạng sống. Nhưng dù định lực Tứ thiền hay Tứ không có kéo dài mạng sống đến mấy vạn kiếp nhưng cũng có ngày hết và rơi xuống, vì chưa chứng thực được diệu chân như tánh tức định Thủ Lăng Nghiêm.
Điều này cho thấy đường đi của ta còn dài và thấy tánh rất khó.
KHOÉT BỎ CHÁNH TÁNH CHÚNG SANH
Thế nào là chính tính?
A Nan, chúng sinh như vậy vào Tam ma đề, cốt yếu trước hết, phải nghiêm chỉnh giữ giới thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.
A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì thật không có lẽ như vậy. Nên xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù. Trước hết, phải giữ tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ cái thân không lay động; về sau, hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ Tát, nắm giữ cái tâm không móng lên. Cấm giới đã thành tựu, thì ở trong thế gian, hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau; đã không làm việc trộm cướp, thì không còn mắc nợ nhau và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong thế gian. Con người thanh tịnh ấy, tu phép Tam ma đề, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được thập phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, chính mình vâng lĩnh thánh chỉ của Phật, được phép đại thần thông, đi khắp thập phương thế giới; túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm; ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai. [3]
Việc thứ nhất vào chùa xuất gia để tránh duyên sanh tử.
Việc thứ hai tiếp theo là khoét bỏ chánh tánh chúng sanh tức là chúng ta bắt đầu thọ giới sa-di-ni, thức-xoa, tỳ-kheo-ni từ thấp lên cao. Bởi vì chúng ta từ bao thai lấy máu nhơ làm bản chất, lấy máu mà kết thành da thịt xương, cho nên bản thể của chúng ta là vô minh, là cái ngu muội, bao nhiêu những mê lầm từ vô thủy đến giờ vẫn sống trong thói quen, trong nếp sống mê muội.
Vì thế phải khoét cho sạch, y theo giới luật, học kinh để tỉnh ra, có một tầm tri kiến cho nó đúng, rồi nếp sống hàng ngày phải ở trong kỷ luật, đi con đường thánh hiền, từng hơi thở, từng bước đi, từng tiếng nói chúng ta phải tập, phải theo các thánh hiền, chuyển bản chất vô minh ngu muội, chuyển thành trí tuệ bồ đề sáng suốt. Đây là nấc thứ hai.
Khoét bỏ chánh tánh chúng sanh tức phải đi ngược lại, làm chủ mình đừng theo những tánh ham muốn tài, sắc, danh, lợi, ngủ, nghỉ nữa. Những tánh này thành tánh của mình rồi, thành con người của mình rồi, nên muốn bỏ khó lắm, không thể chỉ nạo vỏ sơ sơ là được, mà hãy khoét sâu vào trong để lấy ra. Ví như bị bịnh ung thư, buớu độc, phải giải phẩu bên trong để lấy ra. Khoét bỏ lòng tham, lòng thâu vào, lòng tự cao, ngã chấp, ngã kiến, ái kiến... tức là nhân chánh yếu để đưa về đọa lạc. Nhân này làm tâm tánh của mình, nhận tham làm mình, lấy cái tôi nóng lắm làm tánh thể của mình. Phải nạo khoét cho sạch ra vì nó đã gắn liền vào da vào thịt, nó là máu, cho nên bây giờ chúng ta bỏ nó không phải dễ, cho nên nạo sạch những cái mà chúng ta đã lầm.
Vào tam-ma-đề là chánh định cốt yếu để giữ giới luật cho thanh tịnh, trong các giới luật đặc biệt là giới đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt là thứ làm cho người ta say sưa mê muội phải rửa cho sạch những lòng ái nhiễm sát sanh này.
Tại sao mình bỏ tánh phàm phu mình lại đau? Làm sai một việc gì đó, thầy tổ, ba má rầy liền ngồi khóc hu hu, hoặc đùng đùng cãi lại, thế nên rất khó khoét tánh tự ngã hay hỗn láo này. Ai nói xấu mình, liền nói xấu lại nên chúng ta chưa khoét, hay chọc thủng được lưới chấp thủ.
Da thịt mình làm bằng máu mà máu là do mình ăn cơm, uống nước vơ vào thân. Tâm của mình tạp vào da thịt, kết thành thịt xương, thiết tha nhận những cái đó cho là mình. Bây giờ phải vứt nó đi, bỏ lòng tham, chấp ngã về thân này, chúng ta chịu không nổi. Thâu vào gọi đó là lòng tham, thế nên ai nắm lấy mình, đụng đến mình, mình giận. Ai nâng niu chìu chuộng săn sóc mình, mình thương, đó là tánh chúng sanh.
Những cái tham giận, chính mình nhận làm thể chất của mình rồi, thân thể da thịt xương của mình, mình nhận là mình rồi, bây giờ vứt đi thì mình đau mình xót, khó khăn lắm, chứ không dễ gì mỗi chốc là khoét được, cho nên giữ những giới ‘không sát sanh’ để không ăn thịt chúng sanh, trưởng dưỡng lòng từ. ‘Không trộm’ để đừng tham vơ vào mình, trưởng dưỡng lòng bố thí.
Bốn giới: không sát, đạo, dâm, vọng là gốc của các giới khác, phải giữ như băng sương, tỉ mỉ từng tâm niệm, từng lời nói, việc làm. Giới-định-tuệ là ba cái liên quan đạo hạnh không thể rời nhau.
Miệng định nói lời cho bỏ ghét thì dừng lại; tay định lấy trộm bánh ăn thì dừng lại; bước chân định dẫm con kiến thì nhẹ nhàng né đi đường khác, phải có lòng từ, phải có năng lực, định lực thì mới giữ được giới, chứ tán loạn bạ đâu nói đấy thì làm sao mà giữ được giới.
- Phải có trí tuệ mới biết phải trái.
- Phải có định lực để kèm thân miệng, kèm thân miệng tập khí đừng cho buông lung.
Nếu biếng nhác chẳng siêng tu định lực, giới định tuệ thì cứ làm phàm phu hoài, sanh tử luân hồi hoài, không khoét được tánh phàm phu, không khoét được phận trong của mình. Nó vốn là tánh ngoài mà mình nhiễm quá lâu ngày, thành phận trong, như giặc chiếm nhà lâu ngày nghiễm nhiên trở thành ông chủ nhà.
Tập khí là thói quen từ nhiều kiếp, nó vẫn tiềm ẩn ở trong tâm. Có những người thật lòng không muốn đi ăn cắp, nhưng vì tập khí thấy của để đó, tay cứ tấy mấy muốn vơ về mình, phải trì chú để tuyệt duyệt những tập khí để chế ngự tà tư, mới bảo hộ được giới mình mà mình đang hứa giữ.
Hễ chuyên trì chú thì tâm không có những mống nghĩ hư vọng, nhờ thần lực của thần chú cho nên những tập khí, những thói quen từ vô thủy nó không có khởi ra được. Vì vậy, giữ giới là để buông xả, buông bỏ những tánh khí. Giữ được giới là chúng ta đã có một sự cố gắng rất nhiều.
Bây giờ, những vị xuất gia và nhất là những vị đồng chơn học đạo (tức vào chùa khi tuổi còn bé, còn nhỏ) và giữ các giới được hoàn chỉnh là những thánh nhân hiện đời. Vì vậy, chúng ta phải kính trọng chúng xuất gia. Bậc xuất gia phải sống đời sống lìa bỏ gia đình sống không gia đình, sống đời sống uy nghi và phạm hạnh để làm mẫu mực cho nhiều người, mọi ham muốn thế gian nên xa lìa và buông bỏ.
Nếu còn ái dục thì còn luân hồi sinh tử, còn trộm cướp còn có kiếp này sang kiếp khác để đền trả, chứ không phải mình lấy của người ta là xong. Nhất là chúng xuất gia ở trong chùa, thí chủ cúng dường tức người ta đến bố thí cho nhà chùa tức là cho Tam Bảo. Nhưng nếu chúng ta sống không đúng lời Phật dạy mà thọ dụng tùy tiện thì chúng ta phải mắc nợ tài vật của đàn na tín thí. Nhưng nếu chúng ta tu tập thanh tịnh, chúng ta sống đời sống hạnh phúc cho số đông, thì của đàn na tín thí đó sẽ là phương tiện hữu ích thiết thực cho việc xây dựng Tam Bảo, thì chúng ta an lạc và không bị mắc nợ. Do vậy, tăng chúng phải thực hành đời sống an lạc để đem lại hạnh phúc cho nhiều người. Sống đúng nếp sống thánh hiền, xa nếp sống đọa lạc.
Nhân giới đó sanh định, sáu căn thanh tịnh là nhờ chúng ta giữ giới được trọn vẹn.
Nhân định sanh tuệ tức viên tròn ý nguyện xuất thế.
TRÁI VỚI NGHIỆP HIỆN TIỀN
Thế nào là hiện nghiệp?
A Nan, người giữ gìn cấm giới thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, không hay giong ruổi theo lục trần ở ngoài; nhân không giong ruổi, tự xoay lại về tính bản nguyên; trần đã không duyên, thì căn không ngẫu hợp với đâu nữa; trở ngược dòng về chỗ toàn nhất, sáu cái dụng không hiện hành, cõi nước mười phương sáng suốt thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo ở trong ấy. Thân tâm khoan khoái, tính diệu viên bình đẳng, được đại an ổn, tất cả mật viên tịnh diệu các đức Như Lai đều hiện trong đó; người ấy liền được Vô sinh pháp nhẫn.
Từ đó, lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an tập các thánh vị, đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.[4]
Tiệm tu cái đầu là vào chùa tránh duyên sanh tử, rồi cái thứ hai là giữ giới rồi, tiến lên việc thứ ba là trái với nghiệp hiện tiền.
Chúng ta là những vị vào chùa đã lâu, thọ giới rồi học kinh và đồng thời phải tập cái thứ ba là tỉ mỉ từng tầm nhìn, từng niệm từng niệm quay về soi rọi lại mình, làm chủ mình từng niệm sáng suốt, tự tri mình.
Công phu này là mỗi khi mắt nhìn, tai nghe, mỗi một niệm mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm suốt ngày sáu giác quan đối chạm với sáu trần, chúng ta phải tập tuệ giác hiện tiền, lúc nào cũng phải sáng suốt. Lúc nào cũng phải tỉnh thức để ý, bởi tâm ý thức của mình Đức Phật ví như con vượn nó nhảy từ cành này sang cành kia suốt ngày. Đức Phật cũng ví chúng ta như người chăn trâu, lúc nào cũng phải tỉnh thức cảnh giác, không để cho vọng tâm nó mở ra các nguồn tâm tham si. Đây là công phu mà người tu phải tỉ mỉ, cho nên phải ở chỗ an tĩnh vắng vẻ, tránh tất cả những ồn náo để sáng suốt quay về soi mình từng tâm niệm, làm chủ mình từng tâm niệm, có như vậy chúng ta mới thanh lọc được những tập khí từ vô thủy. Đây chính là việc mà hiện tại chúng ta đang phải làm.
Do kiếp trước có túc duyên nên giờ chúng ta có lòng tin về lý luân hồi, nhân quả, thiện ác nên chúng ta giữ giới luật của Đức Phật không dám sai phạm. Trái với nghiệp hiện tiền tức là hiện tại chúng ta có chánh báo (thân mình) và cảnh chúng ta sống là y báo.
Nếu nghiệp hiện tiền của mình hoàn toàn là nghiệp tốt do kiếp trước tạo những nghiệp lành thì bây giờ chúng ta sẽ có đầy đủ như ý muốn, sáu căn được gặp những cảnh thuận lợi. Có thí chủ cứ mang tứ sự đến cúng dường cầu phước. Thế thì khi mắt trông thấy vật cúng dường, thấy sự tùy thuận của mọi người, phật tử cung kính lễ bái, tai nghe tiếng khen ngợi, miệng được ăn những món ngon, mũi ngửi mùi thơm, thân đắp những y áo mát dịu sang trọng, được sống trong cảnh chùa thanh tịnh mát mẻ, không phải lo nghĩ, sáu căn yên ổn. Cảnh hiện tiền thật là trang nghiêm phúc đức, yên vui... toàn là những chuyện vừa ý muốn.
Tuy nhiên, bậc trí phải tuệ tri quán biết những điều này là phúc đức kiếp trước để lại. Nếu hiện tại mà mình không tu hành, khởi tâm kiêu mạn cậy mình thì phúc đức dần dần tiêu mòn hết đi và bị cảnh nó chi phối. Cho nên thấy những cảnh đó đừng cam tâm yên lòng thọ dụng. Dùng trí Bát nhã biết thân mình huyễn không thật, sống với tâm thanh tịnh, trái với nghiệp phúc đức hiện tiền mà bình tĩnh điềm đạm thấy ngoại cảnh không thật.
Nếu nghiệp hiện tiền của mình là nghiệp xấu, gặp toàn những cảnh trái tai gai mắt, bị phỉ báng, thấy những cái không vừa ý, thất bại, chống đối, thì chúng ta cũng quán chiếu biết đây là nghiệp báo của mình, đừng phiền, đừng giận. Phải quán vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh như vậy thọ nhận nhưng nhẹ nhàng vì huyễn hoá hiện ra để tâm đừng sầu, đừng nhọc, giữ tâm bình yên, lắng đọng, yên tịnh và an hoà, thì hy vọng mai sau về cảnh an lành.
Nghiệp hiện tiền nếu tốt, chúng ta cũng biết huyễn, không bận lòng làm chủ tâm mình, không có để cho hoàn cảnh chi phối theo nghiệp hiện tiền. Một lòng trì giới thanh tịnh, quay về tánh bản nguyên căn bản bồ đề của mình, căn không vướng mắc trở về toàn nhất.
Trở về toàn nhất bởi vì người thế gian chạy rong theo sáu trần, bây giờ ngược dòng buông cảnh trần trở nhất tâm. Vị tu thiền thì cứ an định vào căn bản bồ đề. Vị tu tịnh độ thì nhất tâm niệm Phật, trở về toàn chân an định vào tánh Phật của mình, sáu dụng không hiện hành thì thân 1y, sáu căn an định lại, cõi nước 10 phương sẽ như ngọc lưu li, bởi vì cái tâm an định, an hòa. Tâm thanh tịnh ví như ngọc lưu li của mình, như là trăng sáng. Trí sáng của mình, tâm của mình thanh tịnh, khoan khoái, diệu viên bình đẳng.
Diệu viên tức là nhận được chân tâm bản tánh, còn thân mình là theo nghiệp báo. Thân này là cái giả tạm, không phải thật. Đang biết thấy, biết nghe, tánh ấy gọi là tánh A-di-đà vô lượng thọ không sanh không diệt. Thân này tan, chứ tánh biết thấy, biết nghe vẫn có. Ở con chó con mèo cũng vậy, thân mèo, thân chó tan, nhưng mà tánh biết thấy, biết nghe của nó vẫn thường trụ vô lượng thọ. Đến con sâu, con kiến, tánh A-di-đà vẫn bình đẳng với mình, nhận tánh A-di-đà này diệu viên cùng khắp.
Mê muội biến ra con cua, con cá, con người, con ốc, trời, địa ngục... hình tướng khác nhau nhưng tánh vô lượng quang biết thấy biết nghe giống nhau. Vị nào mà nhận được như thế thì người ấy hiện tại đang ở tịnh độ, bồ tát thánh hiền, an ổn, mật viên tịnh khiết hiện ở trong đó, những cái mà chúng sanh bình thường sẽ không biết.
Sở dĩ chúng ta không muốn làm ác, không muốn phạm giới, nhưng vẫn cứ tạo tội, vẫn bị nô lệ theo sự điều khiển của nghiệp lực hiện tiền, đó là do tập khí. Tập khí là thói quen từ nhiều kiếp, nó vẫn ở ẩn trong tâm.
Có những người thật lòng không muốn nói láo, nhưng đụng việc chưa kịp suy nghĩ là miệng nói thêm, nói bớt, đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Có vị xuất gia rồi nhưng vì khi xưa là vũ công hay nhảy múa nên đang đi khất thực mà nghe nhạc xập xình là tay chân ngứa ngáy, gõ gõ theo nhịp điệu nhạc, phải trì chú để tuyệt duyệt những tập khí, để chế ngự tà tư tán loạn mới bảo hộ được ý chí lập trường của mình.
Khi trì chú không được móng nghĩ hư vọng, nhờ thần lực của thần chú khiến những thói quen từ vô thủy không có khởi ra được thì chúng ta mới đi ngược lại, mới trái với nghiệp hiện tiền. Đời sống hàng ngày chạy theo thói quen, cứ đi cái đà xuống dốc. Bởi vì xuống dốc, đâm đầu xuống hố dễ lắm, còn bây giờ đi lên, leo dốc lên thì khó thoát hố thì thành vất vả, nhọc nhằn. Những thói quen tập khí, mê lầm tham, sân, si phải tan hết từ đáy lòng, từ ở trong tạng thức, những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, những thứ phiền não phải sạch hết mới tròn quả vị thánh.
Đức Phật dạy dù hoàn cảnh nào, địa vị nào cũng lấy ba món tiệm thứ làm nền tảng. Tu tam-ma-đề chánh định, là an định vào tánh nghe, là chọn một căn tánh hoặc thấy hoặc nghe hoặc hay hoặc biết rồi chuyên an định vào đó, tức là sống với căn bản bồ đề để lọc bỏ căn bản sanh tử, lọc bỏ ngũ trược.
Ý nghĩa của ba tiệm thứ này để trừ các điên đảo tán loạn. Chúng ta có cái điên đảo số một là thường ăn cơm, uống nước, thở không khí và hút ánh nắng mặt trời chế ra máu, da, thịt rồi gọi là nơi nương tựa, là chỗ ở, chỗ trụ của mình. Cho nên, các tổ cứ ví chúng ta như những con tằm kéo kén, nó cứ rút ruột và rút tơ ra xây thành một cái kén để có nơi yên thân, yên ổn, nhưng không ngờ chính cái kén đó là cái gốc để người ta bỏ con tằm vào nước sôi.
Chúng ta cũng thế, mê muội từ lúc ở bụng mẹ ra cho đến già chết cứ tối ngày lo ăn lo mặc không lo tu tập để làm nơi nương tựa tâm linh vững chãi cho mình. Chúng ta biết thân là ngục tù vướng mắc, cứ nhận nó làm thân thể của mình, chấp ta là thật, là điên đảo số một.
Chúng ta cho là có thân thật, rồi nhìn bên ngoài cảnh mình sống đây gọi là thế giới sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật, chấp cảnh là thật là điên đảo số hai.
Sáu thức nương gá vào cảnh và thân đó khởi phân biệt đo lường tốt xấu, lợi hại rồi sanh phiền não, chấp đó là tâm của mình là điên đảo số ba.
Trong thì chấp ngã, ngoài thì chấp pháp, cứ thế mà tạo nghiệp báo sát, đạo, dâm, vọng chuyển dẫn khởi chúng sanh và thế giới tương tục. Cho nên bây giờ cần tập tu ba tiệm thứ này để trừ cái điên đảo này. Như bình đã đựng thuốc độc, đã chứa ngũ trược trong tạng thức, thì phải dùng ba tiệm thứ này rửa cho sạch thoát hết những mê lầm, chướng ngại, chứa đựng được rồi mới nhận chứa đựng pháp thủy, tức là trở về sống với tánh chân như.
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (2)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (3)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (5)
CHƯƠNG VIII: NĂNG LỰC THẦN CHÚ
Đức Phật dạy: “A-nan, thầy hỏi cách nhiếp trì tâm niệm thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào tam-ma-đề, tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát, trước nhất cần giữ bốn thứ luật nghi đó trong sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được tất cả nhành lá; ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp ác chắc chắn không còn có nhân mà sinh được. A-nan nếu giữ bốn việc như vậy không thiếu xót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất cả ma sự làm sao mà phát sanh được. Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, thầy dạy người đó nhất tâm tụng thần chú vô thượng ‘Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra’ của tôi, đó là cái tâm chú do vô vi tâm Phật của vô kiến đỉnh tướng Như lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
Vả lại, thầy cùng nàng Ma-đăng-già do nhân duyên nhiều kiếp trước thành tập khí ái ân, không phải một đời hay một kiếp; song một phen tôi tuyên dương thần chú, nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia còn là dâm nữ, không có tâm tu hành, do sức thần chú giúp, cũng mau chứng quả vô học; thế thì các thầy, những hàng Thanh Văn trong hội này, cầu tối thượng thừa, thì quyết định sẽ thành Phật, cũng ví như bụi bay gặp gió thuận, có khó khăn gì?”[1] .
Từ nhiều kiếp chúng ta đã tạo vô biên tội ác từ sát đạo dâm vọng, tùy theo nghiệp báo mà chúng ta thọ lãnh tội nặng nhẹ.
Tham ái nhẹ tái sanh làm loài chim cá.
Sân hận nhẹ tái sanh làm rắn, mèo, hổ báo.
Ngu si nhẹ tái sanh làm voi, heo, ruồi và kiến.
Khi nghiệp báo trả ở thân súc sanh nhưng còn dư báo nên khi lên làm người thì hay bị chướng duyên do:
1. Vì tập khí nên xuất gia dễ phạm giới sát, đạo, dâm, vọng. Nếu làm phật tử tại gia phát tâm giữ 5 giới, 10 giới, nhưng việc giữ giới vẫn bị khiếm khuyết, không được trọn vẹn.
2. Vì dư báo nên câm điếc, đui ngọng, gẫy tay hoặc gặp những chuyện hẩm hiu, chướng nạn.
3. Dễ bị phiền não chi phối, khó điều ngự được. Vì phiền não nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham, sân, si để đời đời đi lại trong tam đồ.
Do ba điều này chi phối chúng ta, nhất là chủng tử tập khí, nên đạo nghiệp của chúng ta khó thành, ý chí khó vững.
Xin kể một chuyện về tập khí sát sanh:
Có một tên giết người, sau này được cảm hoá và xuất gia. Dù xuất gia nhưng tập khí cũ vẫn còn mạnh mẽ trong lòng. Ở chùa hay tiếp xúc Phật tử nếu gặp việc không vừa ý, trái ý, thì tập khí hung dữ đó khởi lên mãnh liệt muốn hãm hại đối tượng của mình, muốn đánh, muốn đả thương, dùng bạo lực để đánh trả những người không nghe lời sư.
Cơn khủng hoảng mâu thuẫn dằn vật dữ dội vì sư không muốn như vậy nhưng bên trong tập khí nổi lên, khiến tay chân sư ngứa ngáy muốn cầm vũ khí hung hãn đánh người.
Vị thầy bổn sư phải đứng một bên ân cần khuyên bảo, cùng với tập trung trì chú hỗ trợ để giúp cho ý thức của sư có đủ sức mạnh kềm chế những tập khí thói quen cũ và nhờ tha lực của thần chú gia hộ. Sau nhiều lần trì chú và sám hối, ý thức sư chiến thắng tập khí cũ.
Sư trở nên hiền lành như một nhà sư cửa Phật.
Tập khí thói quen là một cái gì đó không hình không tướng nhưng vẫn chi phối chúng ta khó diệt. Thế nên, trong nhà thiền có bài kệ truyền tụng nổi tiếng như sau:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Ða sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Tạm dịch:
Ðốn ngộ tuy bằng Phật
Nhiều đời tập khí vây.
Gió dừng, còn sóng dữ
Lý hiện, niệm còn đầy.
Bây giờ được làm người, chúng ta còn nhiều dư báo của chủng tử súc sanh sót rớt lại trong thân tâm này, nên chúng ta bị báo chướng (sáu căn không đủ, bịnh hoạn), nghiệp chướng (chủng tử tập khí) và phiền não chướng (phiền, hận, ghen ghét, tập đố...) theo chướng ngại mình.
Để tiêu những tập khí nghiệp báo này, ngoài việc sám hối, quán tưởng hay điều ngự tâm, chúng ta có thể thành tâm trì tụng thần chú sẽ giúp chúng ta có năng lực tiêu trừ tận gốc các tập khí thâm sâu khó gỡ. Hiệu lực của thần chú Thủ Lăng Nghiêm rất lớn.
Thần chú Thủ Lăng Nghiêm còn gọi là Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra hay Bạch Tán Cái tức chỉ cho cái thể dụng rộng lớn của bản lai tự tánh. Bạch là trí tuệ. Tán cái là lòng từ bao la rộng lớn. Như vậy, chú Lăng Nghiêm là biểu hiện toàn thể toàn dụng của tự tâm nên gọi là tâm chú.
Tâm chú này có khả năng và hiệu quả rất lớn, có khả năng tiêu trừ tập khí sát, đạo, dâm, vọng, đặc biệt là tập khí của lòng ái dục. Chính thần chú này đã cứu A-nan và nàng Ma-đăng-già ra khỏi đám mây ái dục. Và khi người trì tụng phát tâm cân xứng với thần chú này nghĩa là cân xứng với bản lai tự tánh.
Thần chú này thuộc mật giáo. Có năm đệ (phần) chia ra 427 câu [2] và không giải nghĩa được. Còn các phần khác trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đều thuộc hiển giáo vì Đức Phật có giải thích từng phần, từng câu rõ ràng.
Thần chú này tùy mỗi nước phiên âm có sai khác đôi chút, nhưng nếu có lòng tin bất động đúng đắn, nhiếp tâm thọ trì miên mật thì sẽ có hiệu nghiệm.
Trong chốn thiền môn thời Lăng Nghiêm được gọi là thời công phu khuya (tức công phu tu tập mới sớm tinh mơ) khoảng 5 giờ hay 6 giờ sáng, tùy từng chùa. Ngoài năm đệ Lăng Nghiêm còn kèm theo chú Đại bi và thập chú như chú Như ý bảo luân vương, Tiêu tai kiết tường, Công đức bảo sơn, Phật mẫu chuẩn đề, Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương, Dược sư quán đảnh, Quán âm linh cảm, Thất Phật diệt tội, Vãng sanh tịnh độ và Thiện thiên nữ chú.
Đây là thời công phu rất thanh tịnh vì sau một đêm nghỉ ngơi, ngủ dậy, tâm trí rất trong sáng, nhẹ nhàng, những công việc hàng ngày nặng nhọc, bận rộn đã lắng xuống, nên thần chú dễ thấm nhuần thân tâm. Thêm vào đó, buổi sáng tinh mơ không khí yên tĩnh, trong lành, thần kinh êm dịu, việc tụng kinh trì chú dễ dàng tăng thêm nhiều năng lượng tâm linh cảm ứng.
1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 570-1.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 583-600.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 583-600.
CHƯƠNG IX: MƯỜI HAI LOÀI CHÚNG SANH
A Nan, nay thầy muốn tu pháp Chân tam ma đề, đến thẳng Đại Niết Bàn của Như Lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên đảo của thế giới và chúng sinh này; điên đảo không sinh, đó là Chân tam ma đề của Như Lai.A Nan, thế nào gọi là điên đảo về chúng sinh? Do cái tâm bản tính là minh và tính minh ấy viên mãn cùng khắp, nên nhân tính minh phát ra hình như có tính; mà vọng kiến nhận là có tính sinh ra, từ chỗ rốt ráo là không, lại thành rốt ráo là có. Có cái sở hữu như thế, là do phi nhân làm nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cỗi gốc. Rồi gốc nơi cái vô trụ đó, mà kiến lập ra thế giới và các chúng sinh.
Vì mê, không nhận được tính viên minh sẵn có, nên sinh ra hư vọng, tính hư vọng không có tự thể, không phải thật có chỗ nương đứng. Cầu muốn trở lại chân tính, thì cái muốn chân đó, đã không phải là tính chân như chân thật. Cầu trở lại không đúng chân lý, thì hiện thành ra những phi tướng: không phải sinh gọi rằng sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.
Xoay vần phát sinh và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo, đồng nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó, mới có điên đảo về chúng sinh.
A Nan, thế nào gọi là điên đảo về thế giới? Do có cái sở hữu đó, nên từng phần, từng đoạn giả dối sinh ra, vì thế mà không gian thành lập; do phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ nên dời đổi mãi, không an trụ, vì thế mà thời gian thành lập. Ba đời bốn phương, hòa hợp can thiệp cùng nhau, chúng sinh biến hóa thành 12 loài. Vậy nên trong thế giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tính, do đó, 12 cách đối hiện xoay vần mãi mãi. Vậy nên trong thế gian, những thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột, đến 12 lần xoay trở lại.
Dựa trên những tướng điên đảo, xoay vần đó, nên trong thế giới có những loài noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng.
A Nan, nhân trong thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động, nên hòa hợp với khí, thành ra 84.000 loạn tưởng bay lặn, vì vậy, nên có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước: cá chim, rùa, rắn, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, nên hòa hợp với tư, thành ra 84.000 loạn tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, nên hòa hợp với noãn, thành ra 84.000 loạn tưởng nghiêng ngửa, vì vậy, nên có tế thi thấp sinh trôi lăn trong cõi nước; nhung nhúc, quậy động, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, nên hòa hợp với xúc, thành ra 84.000 loạn tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết nam hóa sinh trôi lăn trong cõi nước; chuyển thoái, phi hành, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng, nên hòa hợp với trước, thành ra 84.000 loạn tưởng tinh diệu; vì vậy, nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước; hưu cửu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc, nên hòa hợp với ám, thành ra 84.000 loạn tưởng thầm ẩn, vì vậy, nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hòa hợp với ức, thành ra 84.000 loạn tưởng tiềm kết; vì vậy, nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước; thần quỷ tinh linh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, nên hòa hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn tưởng khô cảo; vì vậy, nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước; tinh thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hòa hợp với nhiễm, thành ra 84.000 loạn tưởng nhân y; vì vậy, nên có yết nam, không phải có sắc mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước; những giống thủy mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có tương dẫn luân hồi, điên đảo về tính, nên hòa hợp với chú, thành ra 84.000 loạn tưởng hô triệu; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước, chú trớ, yếm sinh, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng, nên hòa hợp với dị, thành ra 84.000 loạn tưởng hồi hỗ; vì vậy, nên có yết nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi lăn trong cõi nước; những giống tò vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy dẫy.
Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát, nên hòa hợp với quái, thành ra 84.000 tư tưởng ăn thịt cha mẹ; vì vậy, nên có yết nam, không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước; như con thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá kính, ấp quả cây độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy dẫy.
Ấy gọi là mười hai chủng loại chúng sinh [1].
Phần Chúng sanh tiếp tục trong mục Ba tướng tương tục (thế giới, chúng sanh và nghiệp quả) thì nói chung chung, còn phần Hai nhân điên đảo chúng sanh và thế giới này, Đức Phật nói tỉ mỉ chi tiết về nhân điên đảo của 12 loài chúng sanh hơn.
Đức Phật dạy nên biết diệu tính là viên minh, rời các danh tướng, bản lai không có thế giới chúng sanh. Vì nhân vọng có sanh, nhân sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, đó gọi là hai hiệu chuyển y Vô thượng bồ đề và Đại niết bàn của Như lai. Vì do có sanh diệt hư vọng ấy mới có hai chuyển y: chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bàn của Như lai, cho nên Đức Phật mới đặt giáo pháp quyền giáo và thật giáo.
Thế nào gọi là điên đảo về chúng sanh?
Đức Phật cũng như vị thầy thuốc giỏi, bởi vì chúng sanh có bịnh mà ngài mới ban thuốc. Khổ nạn, khổ bịnh của chúng ta là đang biến ra 12 loài. Thế cho nên, Đức Phật mới chỉ ra cho thấy là chúng ta đang ở trong 12 cái điên đảo này.
Chúng ta vừa mới từ bào thai ra tức là ở trong cái điên đảo này ra, chúng ta có khổ nạn như vậy, nên Đức Phật phải đặt giáo pháp. Nói về con đường tu hành, con đường tu chứng này mà có là vì chúng ta có, nên Phật pháp có. Chứ tánh mình vốn viên mãn cùng khắp. Nhân tính minh phát ra hình như có tính mà vọng kiến chấp cho rằng có tính. Thế là từ rốt ráo không mà thành có và cái có này cứ tiếp nối. Như vậy, cái có này từ phi nhân mà làm nhân và những tướng năng trụ, sở trụ rốt ráo không có cỗi gốc. Rồi gốc nơi cái vô trụ này mà lập ra thế giới và chúng sanh.
Nay chúng ta cầu muốn trở lại chân tánh thì khi khởi cái muốn chân đó, khiến trở thành không phải là tánh chân như chân thật nữa rồi. Cầu trở lại không đúng chơn lý thì hiện thành ra những phi tướng, bởi vì mình là Như lai tạng diệu chân như tánh, cho nên cái muốn này là một phi tướng. Một cái sai lầm. Tất cả các pháp mình đang sống đây đều là hư vọng cả, không phải sanh, trụ, tâm, pháp mà gọi là sanh, trụ, tâm, pháp.
Xoay vần phát sanh và sinh lực phát huy, huân tập thành ra nghiệp báo. Đồng nghiệp cảm nhau mà sanh ra nhau, rồi nhân đó lại cảm các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó cảm quả báo có điên đảo chúng sanh.
Thế nào là điên đảo về thế giới?
Do vọng kiến vào các pháp hiện tượng sở hữu đó là thật nên khái niệm từng phần, từng đoạn, dài rộng, diện tích, chu vi, kích thước của hiện tượng bắt đầu giả dối sanh ra. Vì thế mà không gian thành lập. Bởi vì có hiện tượng vạn pháp, đất, nước, gió, lửa ở trong hư không biến đổi, phi nhân làm nhân, không có năng trụ, sở trụ, nên dời đổi mãi nên mới có ngày hôm qua khác, hôm nay khác, ngày mai khác, có quá khứ, hiện tại và tương lai để đánh dấu đo lường sự thay đổi ấy. Do vậy, khái niệm ‘thời gian’ được con người xác lập. Thời gian và không gian được nói gọn là thế giới.
Thời gian có ba (quá khứ, hiện tại và tương lai). Không gian có bốn (đông, tây, nam và bắc). Ba tác động vào bốn: 3 x 4 = 12. Bốn tác động vào ba: 4 x 3 = 12 hoà hợp can thiệp vào nhau, chúng sanh biến hoá thành 12 loài.
Thân mình chính là thế giới, đầu tiên có thân tức là có động, nhân động mà có âm thanh, nhưng có âm thanh mình mới phân biệt hình sắc. Vì có hình sắc nên có hương, nó có cái sự biến chuyển. Có hương nên mới có xúc, nhân xúc mà có vị, nhân vị biết pháp, thành ra biết các pháp phân biệt những sáu trần đó mà thành có tham, sân, si mới tạo nghiệp, sáu vọng tưởng càn loạn thành ra nghiệp tính. Do dó 3 x 4 = 12, 12 cách dối hiện xoay vần mãi mãi. Vậy nên trong thế gian, những sắc, thanh, hương, vị, xúc biến đổi cùng tột, đến 12 lần xoay trở lại.
Bốn phương và ba đời này biến hoá thành 12 loài sanh. Chúng ta khởi tham thì lòng tham đó thông cả 10 phương 3 đời vì thế đây dùng đến sự biến chuyển, dùng 3 x 4 để chỉ con số tổng. Chúng ta có ra khỏi cái biến chuyển này đâu, nên có cả bắt đầu, hiện tại và tương lai, chứ đâu có phải chỉ là chuyện quá khứ. Cái điên đảo này mình đã chịu và quen rồi. Hiện tại chúng ta đang ở trong 12 loài này. Nhân duyên sáu cái vọng tưởng, nó làm nhân duyên lẫn cho nhau mà thành hình này là từ sắc mà có hương, rồi từ hương mà có vị... rồi có vạn pháp, có hiện tượng thế giới. Thấy có thế giới tức là chúng ta đã có cái nhận thức điên đảo về mặt sanh diệt hiện tượng thế giới rồi.
Không có cái thấy thì làm sao có hình sắc. Nhân vọng động mà có âm thanh, rồi từ âm thanh ấy mình để ý mình nhìn thì thấy có hình sắc. Thế nên, đây nói là sáu vọng tưởng càn loạn, tức không phải tất cả nó đều như thế. Không phải theo thứ tự, trước hết nó thấy có động, có âm thanh, rồi về sau có sắc có hương. Đây giản dị mà nói như thế, sự thật ra thế giới điên đảo càn loạn nghĩa là không nhất định có thứ nào trước và thứ nào sau. Vì mình có nếm ăn, mình biết có vị ngọt chua, cho nên trong tâm của mình có pháp trần, cho nên nhìn quả xoài là biết nó có vị, vừa chua, vừa ngọt, bởi vì pháp trần trong tâm mình.
Chúng ta có bốn phương. Con mắt thấy tiền khởi tâm tham muốn ăn cắp. Ăn cắp này là ở đằng trước tức thân của chúng ta, nó dung thông khắp thân. Ăn cắp thật ra thì nó ở cái tay. Cái tay bên phải lén lấy tiền, tay đó là thân mình, một cái tội.
Sau khi tạo tội ăn cắp phải làm trâu trả nợ ăn cắp, tức là phải vào bào thai con trâu mẹ thì lúc vào bào thai ấy, mắt thấy sự giao hợp của trâu cái và trâu đực, tâm khởi ham thích, động niệm vướng vào chỗ đó.
Cho nên trong bốn phương, chúng ta có thể ở một chỗ này, mình tạo ác, có cái nghiệp ác ăn cắp như thế. Ở một chỗ khác, mình khởi lòng tùy hỉ việc dâm dục, có cái chủng tử ái nhiễm như thế. Mỗi nghiệp, mỗi nghiệp đan dệt nhau từ cái nghiệp ăn cắp là phải trả nợ ăn cắp, nhưng nó lại thêm nghiệp dâm dục nên vào bào thai, rồi lại còn đầu óc ngu si, cho nên nó phải làm con vật để đền nợ.
Nếu nó giải thoát, nó làm ông thánh thì nó lại đền nợ bằng cách khác. Thế cho nên các nghiệp trong thân của chúng ta trước sau, trái phải, mỗi chỗ nó có mỗi nghiệp, mà mỗi nghiệp ấy nó nhuận nghiệp với nhau, nó hoà hợp với nhau mà thành quả báo. Ví dụ chúng ta có bốn, năm nghiệp: nghiệp ăn cắp, ngu si, dâm dục, nói láo, nghiệp vào bào thai... nhưng nghiệp nào nặng nhất thì mình đi trước.
1. Thế giới đây là thân tâm của chúng ta, là năm ấm hiện tại của chúng ta. Toàn thân, toàn tâm trong vòng luân hồi vẫn có thói quen theo hư vọng. Tất cả các pháp mình đang sống đây đều là hư vọng cả, không phải sanh, trụ, tâm, pháp mà gọi là sanh, trụ, tâm, pháp, cho nên tâm động loạn cứ thế mà luân chuyển. Hư vọng là không sống với sự thật, chân tâm bản tánh của mình, sống trong hư vọng không biết sự thật, điên đảo tạo một cái nghiệp vọng động. Thế nên do trong thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động như thế, hoà hợp với khí, thành ra 84 ngàn loài loạn tưởng bay lặn, vì vậy nên có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy dẫy.
ì lúc lâm chung vọng động, điên đảo chỉ hoà hợp với hơi khí, nương thở hơi khí thành ra 84.000 loạn tưởng, có loài bay ở trên trời như chim, đại bàng, có loài lặn dưới biển như cá, tôm...
Tỷ căn của con gà mái chỉ lãnh có hơi khí, chúng ta mắc vào hơi khí ấy thì ở trong quả trứng của con gà thành thân gà. Có học đây mới thấy cái biến hoá mà chúng ta chịu ở trong sự vần xoay này. Bây giờ cùng nhau ngồi trong đạo tràng, trong chùa, trong thiền đường đây, chưa biết tương lai ai thế nào và sẽ trở thành cái gì? Có thể thân sau là con gà, con cá, con cua, cái nghiệp báo xoay vần… Phải biết sợ chỗ này mà thành tâm cầu vãng sanh. Tập quen đường đi giải thoát, quen niệm Phật để về cõi Phật. Nguyện lúc lâm chung không ốm đau, để tỉnh táo niệm Phật, đừng có những vọng động điên đảo này.
2. Nhân trong thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, hoà hợp với tư, thành ra 84 ngàn loạn tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc thai trôi lăn trong cõi nước; người, súc sanh, rồng, tiên, các loài đầy dẫy.
Đây là thói quen tạp nhiễm mà toàn thân đều điên đảo về dục, tức điên đảo tạo một cái nghiệp dâm dục là nghiệp chính để mà có quả báo. Mỗi loài theo các nghiệp nặng nhẹ khác nhau nhưng nghiệp chính là dâm dục thì thuộc nhóm ngang dọc này. Nếu có nghiệp nặng thì chun vào thai loài súc sanh, trâu bò, chó mèo...; nghiệp nhẹ hơn vào các loài tiên cảnh. Loài người do tu phép trường sanh mà thành tiên, như thế tiên cũng thuộc loài người; nghiệp không nặng không nhẹ thì vào thai người. Lâm chung thấy chất tinh ướt của cha mẹ, khởi ham thích tinh cha huyết mẹ ấy nên mắc vào bào thai. Tùy nghiệp tạm nhiễm thành ra 84 ngàn loạn tưởng ngang dọc đều chính là ở tại tâm của chúng ta. Loài người, tiên, súc sanh, loài rồng là những loài từ bào thai mà ra.
Vậy chúng ta muốn thoát chuyện bào thai, thì đừng có gặp cái gì cũng ưa, cái gì cũng ghét. Dĩ nhiên đừng tạo dâm dục là điều quan trọng nhất, không có tạo nghiệp ấy, chừa cái thói tạp nhiễm, chính tâm tạp nhiễm ấy mà chúng ta vừa ở bào thai ra.
Do thế giới tạp nhiễm, tạp loạn thấy gì cũng thích, như thấy hoa cúc thì thích, rồi thấy hoa lan thì thích lan, vướng cái này thích cái này, tiếp xúc cái kia thì thích cái kia cho nên gọi là tạp nhiễm. Nhân đó mà vào bào thai thì đây gọi là dục điên đảo. Nhiễm là dính mắc. Nhiễm nặng nữa thì gọi là ái, mà ái nặng nữa thì gọi là dục, nghĩa là bị nhiễm mạnh lắm đấy, là nghiệp vào bào thai rồi.
3. Nhân trong thế giới có chấp trước luân hồi, điên đảo về thú, hoà hợp với noãn, thành ra 84 ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa; vì vậy nên có tế thì thấp sinh trôi lăn trong cõi nước, nhung nhúc, quậy động, các loài đầy dẫy.
Đây Đức Phật đã cặn kẽ chỉ ra để chúng ta giữ gìn đừng có vướng mắc, đừng để tư tưởng vướng vào những cảnh sáu trần. Nhân thế giới chấp trước luân hồi. Chấp là nắm lấy, tức là vướng mắc vào, tức là vẫn có thói quen chấp cái này là đẹp, là xấu; chấp cái kia là hay, là dở. Cứ chấp thủ như thế và vướng mắc vào chỗ mình đã chấp. Cái gì mình yêu thì mình vướng vào và cái gì mình ghét thì mình cũng chấp thủ, thế thành ra nó tạo nghiệp, ở đây gọi là tạo nghiệp su phụ.
Trong luật Sa-di dạy có chú sa-di thích ăn sữa. Sau khi chết biến thành ra con bọ, con trùng ở trong hộp sữa đó.
Như thế ghiền trà, ghiền café thì cẩn thận không khéo thành con dòi trong cây café. Những vị nào ghiền cái gì thì làm con bọ cái ấy. Một vị trụ trì, làm chủ ngôi chùa, chỉ vì thích một khóm mía hàng ngày chăm sóc trông nom tưới tẳm, ưa thích khóm mía cho nên lâm chung thành ra con sâu ở trong khóm mía.
Một người đàn bà gục bên cạnh xác chồng khóc. Người chồng trong lúc hấp hối thần thức đang bất định, thêm vào đó bởi vì có chỗ lưu luyến yêu thương với vợ, thấy bà khóc thảm thiết nên động lòng thương, đi không đành, bèn hoá thành con sâu gá vào lỗ mũi của bà vợ, tức tinh thần ông chồng thành con sâu. Tất cả không ra ngoài sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Người chồng trông thấy hoặc nghe tiếng vợ khóc, thế là lãnh thọ mà có thọ là có tưởng, là mắc ngay vào. Những vị đặc biệt ưa thích cái gì, bởi vì cái ưa thích là cái hèn, cái tầm thường, thì sẽ làm con trùng thấp hèn ở những cái mình đang ưa thích. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh cứ tiếp tục.
Thế nên, hễ mình ưa thích vướng mắc một điều gì thì kẹt ở chỗ đó, đó là chấp trước luân hồi. Thói quen chấp trước luân hồi. Chúng ta tạo cái nghiệp, chúng ta su phụ và thích cái nào thì mình đầu thai vào đó. Gặp khí ướt thành con sâu, ở cái chỗ ấy tức ưa thích hợp với cái chỗ đó thích ăn sữa thì thành con sâu trong sữa, ông thầy thích ăn mía thì thành con sâu trong mía. Có thế thôi nhẹ nhàng như không mà thành tinh thần của mình bị chuyển đi trong những đường luân hồi thật bất ngờ.
Các loài sâu bọ nhung nhúc này gọi là 84 ngàn loài phản phúc. Phản là ngược và phúc là lật lại. Loài bọ di chuyển bằng cách lật úp xuống (giống em bé mới sanh lật qua lật lại). Phúc là bàn tay chân úp xuống là phúc. Có các loài loạn tưởng ngang dọc, có loài loạn tưởng bay loạn, còn đây là loài loạn tưởng phản phúc. Phản phúc là nói về hình tướng, chứ không phải nói về tâm địa, không phải là nói về tâm địa phản phúc mà nói về thân, về hình tướng, về cách thức di chuyển.
Theo như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật chỉ ra chân tâm bản tánh của mình hiển lộ ở tánh thấy, nghe, hay, biết. Xin an định vào tánh thấy, nghe, kiến, tinh nguyên minh, lấy đấy làm chỗ nương tựa. Đối với sáu trần bên ngoài, không khởi ham thích một thứ gì bởi lẽ có nhiễm là có vướng mắc. Chúng ta gặp cái bánh kem là thích cái bánh kem, gặp quả dưa hấu ngọt thì ham quả dưa ngọt, bây giờ tập thảnh thơi đừng ưa thích cái gì, dùng tự tại, ai cúng món gì ăn món nấy, không khởi tham vướng.
Chung quy cũng chỉ ở tâm chúng ta vướng mắc vào sáu trần. Bởi mình có thói quen đã tạp, đã nhiễm nên tạo cái nghiệp dâm dục, đó là nghiệp chính để đi đầu thai. Bây giờ mình muốn tránh đừng xảy ra cái lục dục, thì tập luyện cho cái tâm của mình đừng tạp nhiễm, su phụ điên đảo.
Phần đầu kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật đã nói tất cả chúng sanh luân hồi sanh tử bởi không biết tịch thường tâm tánh, không biết an định vào cái tịch thường tâm tánh của mình khiến sáu căn vướng mắc sáu trần.
Chúng ta có sáu cửa để vướng mắc, vì nghe âm thanh, ngửi hương, có thể cũng vì vị trần, mà cũng có thể chỉ cần nhớ đến pháp trần, nhớ đến một trần là vướng rồi.
4. Nhân trong thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hoà hợp với xúc, thành ra 84 ngàn loạn tưởng mới cũ, vì vậy, nên có như có yết nam hóa sinhtrôi lăn trong cõi nước, chuyển hoá, phi hành, các loài đầy dẫy.
Như con tằm ở trong cái kén mọc cánh, nó chui ra nó bay đi. Hoà hợp với xúc mà vào cái trứng của con tằm, vào quả trứng của con sâu, con sâu mới biến con tằm bay đi, những ý này chúng ta không biết rõ.
Hoà hợp với xúc thì xúc thế nào? Học về các loài sinh vật này mới biết về sinh sản của nó.
5. Nhân trong thế giới có lưu ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hoà hợp với trước, thành ra 84 ngàn loạn tưởng tinh diệu, vì vậy nên có yết nam sắc tướng trôi lăn trong cõi nước, hưu cữu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Đần độn chướng tế, không có thông minh, gọi là lưu ngại thế thì gặp chướng tại các nghiệp, tà kiến, chướng điên đảo. Lâm chung thấy ánh sáng, sao lành, sao dữ do đần độn rồi chướng điên đảo, tạo cái nghiệp ví như thờ lửa chẳng hạn. Thế cho nên lâm chung thấy ánh sáng mà thành ra các ông thần tinh minh, giả can, quỷ thần.
Yết nam là cái thai nhưng cái thai không phải bằng đất, nước, gió, lửa.
6. Nhân trong thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về hoặc, hoà hợp với ám, thành ra 84 ngàn loạn tưởng thầm ẩn, vì vậy nên có yết nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, hưu cữu, tinh minh, các loài đầy dẫy.
Tiêu tán là thấy cái gì cũng không hết, thân này chết rồi thì hết chuyện không có nhân quả gì cả, hợp với ám tối bởi vì chấp không, lâm chung gặp ám tối thành ra các loài không tán tiêu trần, số đông là thành các thần hư không vì yết nam vô sắc, vì chấp không, cũng có những vị ở cõi trời vô sắc Tứ không như Phi Tưởng phi phi tưởng xứ, không tán tiêu trần trong cái mù mịt cái không.
7. Nhân trong thế giới có võng tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, nên hoà hợp với ức, thành ra 84 ngàn loạn tưởng tiềm kết, vì vậy nên có yết nam hữu tưởng trôi lăn trong cõi nước; thần quỷ tinh linh, các loài đầy dẫy.
Thế giới luân hồi võng tượng, điên đảo về ảnh, tưởng tượng những bóng ảnh không thật. Như ngồi tưởng mình mua gà nuôi, rồi từ từ phát triển thành một đàn gà, bán rồi mua một heo con nuôi, rồi từ từ được một đàn heo. Rồi chúng ta bán, mua con bò mẹ, bò mẹ đẻ bò con, từ từ thành một đàn bò. Tưởng như thế gọi là vọng tưởng với bóng ảnh. Thế khi lâm chung do nhớ nghĩ những bóng ảnh đó từ trong ký ức, điên đảo về ảnh thì số đông chết thành quỷ thành ma.
Do tà kiến khiến làm chướng, nhân thế giới vọng tưởng luân hồi, bóng ảnh điên đảo, chúng ta tưởng là thật. Thật ra, mình chẳng bao giờ mình thấy hình thật, mà chỉ thấy cái bóng do ánh sáng mặt trời phản chiếu bóng ảnh nơi thân kinh của con ngươi mà hiện chiếu bóng ảnh lên và theo nghiệp làm người chúng ta biết đây là hoa cúc tím. Hàng ngày chúng ta sống bằng những hư vọng như vậy, ở lưỡi, ở thân, những cảm giác thơm ngon, chúng ta đâu có sống với sự thật mà chỉ sống bằng cảm giác, những cái vang ở trong thần kinh biến ra sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, chính mình y vào thần kinh mà biến ra sáu trần.
Cả đời mình sống trong vọng tưởng như vậy. Bóng ảnh điên đảo nắm lấy một điên đảo vọng tưởng nào đó, cái đó gọi là bóng ảnh điên đảo. Bóng ảnh là nhớ đến, chúng ta nhớ đến mẹ, nhớ đến người thương, người ghét, toàn là nhớ đến những bóng ảnh vọng tưởng, cho nên số đông loài người này sau khi chết thành ma quỷ.
8. Nhân trong thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, nên hoà hợp với ngoan, thành ra 84 ngàn loạn tưởng khô cảo, vì vậy nên có yết nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước; tinh thần hoá làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy dẫy.
Nhân thế giới u độn luân hồi, không tuệ, thành ra đần độn, hợp với ngoan không, ngu ngơ nên khi chết liền biến thành cây la, cây tùng, đất, đá, vàng tức thấy mình là rừng cây, đống đất, khối vàng, cục đá khô khan.
9. Nhân trong thế giới có tương đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, nên hoà hợp với nhiễm, thành ra 84 ngàn loạn tưởng nhân y, vì vậy nên có yết nam không phải có sắc mà có sắc, trôi lăn trong cõi nước; những giống thủy mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy dẫy.
Do thế giới tương đãi luân hồi, có thói dẫn dụ đưa người ta vào điên đảo, tạo nghiệp độc ác, trái với lương tâm, không hợp với lẽ phải, cho nên chịu quả báo nên thành thân không phải có sắc mà có sắc ví như làm thân con sứa nó mắc vào bọt nước lấy bọt nước mờ mờ không phải sắc mà có sắc thành thân.
Thế nào là tương đãi luân hồi? Đợi chờ người khác làm cho mình ăn cho nên gọi là tương, tương đãi. Ngụy điên đảo: già, bé, lớn, nhỏ đều tìm cách đánh lừa người ta.
Gian trá đánh lừa người ta khiến người ta chịu những khó khăn để mình hưởng cái tốt, nên lúc lâm chung là hợp với nhiễm thành thân. Đây nói con sứa, nó nhiễm, nó vướng vào bọt nước làm thân. Nó không có thân, nó lấy bọt nước làm thân. Có 84 ngàn loài loạn tưởng (các loài đầy dãy) như thế, những người dân biển thường thấy loại này.
Chúng ta nương tựa vào vật khác mà thành thân, cho nên gọi là do nhân ấy nó thành quả. Như con sứa nó nhiễm với bọt nước mà thành thân nên gọi là nương tựa (nhân y). Nó loạn tưởng, vì nó cũng đâu có biết gì, tâm cứ vướng mắc bừa bãi, gặp vướng thì thành thân, chứ nó không biết rõ. Thân sứa màu trong vắt trông như nước biển không có gì khác cả. Thật ra, nó cũng có vài vân đo đỏ chứ không phải như màu trắng trong. Mình nhìn khó nhận ra, nhưng khi nó động đậy chạm vào chân mình, mình biết có con vật gì đang bám vào chân. Thân của sứa trong suốt như nước biển.
10. Nhân trong thế giới có tương dẫn luân hồi, điên đảo về tính, nên hoà hợp với chú, thành ra 84 ngàn loạn tưởng hô triệu, vì vậy nên có yết nam không phải vô sắc mà vô sắc, trôi lăn trong cõi nước; chú trớ, yếm sanh, các loài đầy dẫy.
Thế nào là tương dẫn luân hồi? Có những người thông minh lắm mà vẫn bị người ta đánh lừa do bùa chú hay hô triệu. Do nghiệp dẫn dụ người ta, xúi dục người ta, định tâm là lừa lọc cho nên gặp quả báo là bùa chú, hô triệu làm mình sập bẫy.
Tại sao không phải vô sắc mà vô sắc? Âm binh nó có hiện diện mà mình không thấy, nhờ bùa chú ấy nó mới hiện lên, chứ không phải những bùa chú này tạo nên những âm binh. Bùa chú này hô triệu những âm binh. Âm binh có sẵn ở các cây cỏ sông núi, chỗ nào cũng có sẵn những vong linh, âm binh này, nhưng mà không hiện lên được, bùa chú gọi, nó mới hiển linh. Bùa chú năng động nên mới biết có vong linh ấy, có những tinh thần ấy đang bám ở những chỗ mờ mịt.
Những thầy ngải, thầy bùa, họ nói chuyện với ma quỷ được, họ có phương pháp, thần chú bí mật của họ. Người chuyên chữa tất cả bịnh về rắn cắn có những thần chú về hô triệu rắn. Nếu đúng nửa đêm, họ trì thần chú nào đó để triệu rắn thì nhiều rắn sẽ từ các phía tụ về dưới chân vị đó.
10. Nhân trong thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về võng, nên hòa hợp với dị, thành ra 84 ngàn loạn tưởng hồi hổ, vì vậy nên có yết nam không phải có tưởng mà có tưởng,trôi lăn trong cõi nước; những giống tò vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy dẫy.
Hợp vọng là cứ vơ lấy làm mình, gọi là mình, bởi vì không phải mình mà nhận làm mình nên gọi là vọng, không phải là của mình mà cứ nhận lấy làm của mình, bắt con người ta nhận làm con mình... Đây gọi là hợp vọng.
11. Nhân trong thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát, nên hoà hợp với quái, thành ra 84 ngàn tư tưởng ăn thịt cha mẹ, vì vậy nên có yết nam không phải vô tưởng mà vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước; như con thổ kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá cánh, ấp quả cây độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy dẫy.
Man muội: man là dối trá tức không phải của mình mà nhận làm mình.
Thế nào gọi là con thổ kiêu? Nó cưu mang một hòn đất và cứ tâm tâm niệm niệm hòn đất này làm con nó. Ấy thế mà hòn đất hóa làm con chim thật. Tâm tâm nghĩ đây là tâm mình mà hóa thành con chim, cho nên gọi là hợp với quái dị, chứ nó không phải là cái bình thường. Mẹ nó muốn nó lớn, nhưng khi nó lớn, nó ăn thịt luôn mẹ nó, cho nên gọi là yết nam vô tưởng mà không phải là vô tưởng.
Cục đất là vô tưởng ấy thế mà hóa thành con chim. Con chim lớn lên rồi ăn thịt cha mẹ. Con chim Phá cánh cũng thế không có ấp hòn đất, nó ấp trái cây độc và trái cây hoá thành con chim, chẳng những có tinh thần biết ăn uống, cũng mọc lông, mọc lá, có tay, có chân, có cánh tử tế nên gọi là những loài quái gỡ.
Thế nào là thế giới oán hại luân hồi? Đem cái lòng oán hận tức là các bậc ân nhân như cha mẹ mình, bây giờ mình đem lòng oán hại tạo cái nghiệp sát, đạo, dâm, đem cái oán mà đáp cái ân để đến nỗi giết cha giết mẹ, giết các bậc ân nhân, cho nên gọi là sát điên đảo. Vì vậy mới có các loài quái gỡ này. Chim quái gỡ nên nó ăn thịt ngay mẹ nó, nó có thần thức nên nó chuyển biến cái cây thành con chim, thành con chim Phá cánh. Đây là những loài oán hận cha mẹ, ăn thịt các bậc ân nhân mà đây Đức Phật nói các loài này đầy dẫy, những loài quái gỡ này đầy dẫy mà mình không biết, tức cái cực ác đầy dẫy thế gian.
Tránh đi cái tâm oán hại, ngoan cố, nham hiểm. Ngoan là si chấp. Hiểm là độc địa. Nham hiểm hai chữ ấy là tỏ cái tâm của mình, độc ác, nó lại không có chỗ thẳng thắn, không có bộc lộ ra ngoài, còn có chỗ che dấu được. Người nham hiểm là người ác, là nhân địa ngục. Sau làm kiếp quỷ, cổ độc quỷ chịu vô cùng khổ sở, rồi lên làm sâu độc, thú độc do ảnh hưởng tâm độc của mình.
Bên Ấn độ có loài sâu người ta đặc biệt dùng làm thuốc độc. Loài sâu này là loài có chất độc trong thân. Bởi do nóng giận, hiểm ác rồi về sau thành bàng sanh thành những con sâu có chất độc ở trong.
Bài này nói về 12 nhân để sanh 12 loài, trong tâm mình cả ngày phần thế (ba đời) và phần giới (10 phương) đều có những vọng tưởng này, có 12 thứ này. Cha con, anh em lớn lên ăn thịt mẹ mà đây Đức Phật nói các loài đầy dẫy mà mình không biết thế thôi.
Bài này rất là quan trọng vì tâm niệm hàng ngày chúng ta đang đi về 12 nhân để sanh ra 12 loài. Trong tâm chúng ta cả phần thế và phần giới đều có những vọng tưởng này, có 12 thứ này, cho nên chúng ta ngay trong thân này mà mạnh về chủng tử nào, khi tan thân này thì niệm cuối cùng sẽ thuộc về loài đó thì là đi về đường ấy. Cho nên chính bài này rất hay. Chúng ta cẩn thận phải soi tâm mình, cẩn thận từng niệm, bây giờ cứ tập theo nhiễm một lần, rồi hai lần, riết nó thành thói quen.
Thói quen dần dần nó thành tánh nết. Lúc lâm chung chợt có một niệm gì thì nghiệp ấy hiện lên, ấy thế là mình lôi mình vào trong loài đó. Hiện tại chúng ta vừa ở trong bào thai đi ra tức là ở cái số hai (loài thai sanh trong 12 loài).
Chúng ta đang ở trong đường này cho nên pháp môn tịnh độ mới khuyên chúng ta tập niệm Phật nhiều cho tâm mình quen, để lúc nào tâm mình cũng nhớ Phật, niệm Phật, cầu vãng sanh để ra khỏi mạng lưới 12 loài nguy hiểm này. Chính là chúng ta đang ở trong cảnh này. Chúng ta vừa ở bào thai ra với những chấp trước biến dịch, những lưu ngại tà kiến là tâm thể vọng động. Chúng ta có đủ những thứ này, những chủng tử này, chúng ta có đủ hết trong tạng thức, cho nên tập hàng ngày phải tập đổi lại hoặc là niệm Phật hoặc là tu thiền.
Tu thiền thì sáng suốt ngay lúc sáu căn gặp sáu trần không theo khách mà làm chủ nhân ông nghĩa là suốt ngày giác tỉnh. Nếu chúng ta không thể suốt ngày giác tỉnh sáng suốt được thì tập thói quen niệm Phật ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ để cứ nhớ đến Phật, tập mãi thì thành thói quen.
Thói quen ấy là thói quen giác tỉnh thì nó giải thoát những nguy hiểm này. Tập hàng ngày thì lúc lâm chung ấy may ra mới hy vọng những thói quen niệm Phật gạt đi những loạn tưởng này ra, cho chúng ta vãng sanh về cõi Phật. Cho nên các tổ khuyên chúng ta hàng ngày chịu khó niệm Phật để tập cho nó thành thói quen. Với thói quen ấy, may ra lúc lâm chung thì niệm cuối cùng của mình là niệm Phật về với Phật.
Chúng ta hiểu nhận được đi về cõi Phật là giải thoát vòng 12 nhân này. Hiện nay chính là chúng ta đang ở trong 12 vòng này, cho nên bài này rất quan trọng. Chúng ta chịu khó ngẫm nghĩ suy xét, rồi phổ biến lưu thông để tất cả cùng biết với ước mong tất cả thoát màn lưới nguy hiểm này.
Nguy hiểm là cái đầu tức sanh tướng vô minh. Nếu mình nắm được cái đầu thì coi như mình nắm được tất cả. Con rắn vô minh nó dài từ vô thủy đến giờ. Chúng ta nắm được cái đầu vô minh là biết vọng trần chứ chẳng có gì khác, chúng ta cứ quay về hiện tại. Cái hư vọng này là cái gì? Tánh giác vốn minh cho nên bây giờ mới dạy chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Trở về mình là tánh giác, tánh Phật. Tánh chúng ta vốn đầy đủ rồi, trở về sống với chân tâm bản tánh. Còn cái gì giản dị hơn sao chúng ta lại không chịu như vậy. Chúng ta không ai chịu sống với tánh A-di-đà sẵn có của mình.
Chúng ta không chịu ngồi yên ổn làm ông Phật, mà chúng ta cứ phân biệt, cứ có cái thói thích thấy, thích nghe, phải đi du lịch đi chơi, chúng ta cứ thích mua thêm việc vào thân. Tâm nó cứ động, mình cứ phải phân biệt, an định ở cái tánh Phật của mình. Vậy thì cái vọng không có gì khác qua phân biệt.
Cái bản tánh của mình là Phật, mà lại không để tâm đến. Sáu căn chạy theo sáu trần, cái hư vọng, thế là hóa ra lầm lỗi mà cái tâm lầm lỗi này nó mở màn cho cả một trời si mê từ vô thủy tới giờ không cản được và nó càng chảy thêm. Mở ra bao nhiêu nghiệp sát đạo dâm vọng, cứ kéo dài mãi đường luân hồi cho đến giờ mà chúng ta vẫn chưa chịu tỉnh ra, mà cái lỗi lầm không đâu xa, không phải cái gì khác, ham phân biệt, chạy theo sáu trần, lỗi là chỉ ở chỗ ấy thôi. Một khi cái cảnh đã lù lù trước mắt, đã có cái sắc tức là mình phải có cái thấy, tức sở đã có thì đồng thời phải có năng, trước mắt phải có cái thấy để phân biệt cảnh.
Tóm lại, 12 loài là:
1. Noãn sanh
2. Thai sinh
3. Thấp sinh
4. Hóa sinh
5. Hữu sắc
6.Vô sắc
7. Hữu tưởng
8.Vô tưởng
9. Không phải có sắc mà có sắc
10. Không phải vô sắc mà vô sắc
11. Không phải có tưởng mà có tưởng
12. Không phải vô tưởng mà vô tưởng
Mỗi một trong 12 loài này lại có 84.000 loài này đầy dẫy, mà giờ bảo chúng ta tìm một loài chúng ta cũng không tìm được.
Hãy an định vào căn bản bồ đề của thức tinh nguyên minh, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật, giữ tâm định lại. Đừng để nó cứ gặp duyên nó biến hoá, thành ra 12 loài như thế này, chuyên tâm tu hành là cái cần yếu. Nhất tâm an định vào căn bản bồ đề luyện cho tâm chúng ta thành một khối, đừng để cứ biến hoá 12 loài như thế này quá hảo huyền. Một khi đã làm con bướm, con sâu thì khó đi lên cho nên phải biết sự nguy hiểm.
Bây giờ làm người có nhiều khả năng để giải thoát. Trong nghiệp làm người này, chúng ta có nhiều cơ hội để vượt khỏi cửa ải, qua cái khó khăn này. Nếu mất thân người mà đọa trong 12 loài thì khó lên.
Đây là những lời dạy của Đức Phật. Nghe lời ngài nói mà nhận ra chứ chúng ta làm sao biết được những chuyện này. Ngài nói như vậy thì chúng ta biết như vậy. Đây là Nhất thiết chủng trí tức trí tuệ thông biết tất cả chủng tử mọi loài của Đức Phật.
1. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 624-9.
CHƯƠNG X: BA TIỆM THỨ
“A Nan, như thế, chúng sinh trong mỗi mỗi loài, cũng đều đủ hết 12 thứ điên đảo. Cũng như dụi con mắt, thì hoa đốm đủ thứ phát sinh ra, chân tâm diệu viên trong sạch sáng suốt mà điên đảo, thì đầy đủ những tư tưởng càn loạn giả dối như vậy. Nay, thầy tu chứng Tam ma đề của Phật, thì đối với những tư tưởng càn loạn, làm nguyên nhân cỗi gốc của các điên đảo, nên lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được, cũng như, trong khí mãnh trong sạch, trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và các thứ chất tro, chất thơm rửa sạch khí mãnh rồi, về sau, mới đựng nước cam lộ”.
Khai Thị Ba Tiệm Thứ:
“Thế nào gọi là ba tiệm thứ? Một là tu tập, trừ các trợ nhân; hai là chân tu, nạo sạch chính tính; ba là tăng tiến, trái lại hiện nghiệp”.[1]
Chúng sanh trong mỗi loài đều có đủ 12 thứ điên đảo này, như bị nhặm mắt thì thấy đủ loại hoa đốm 12 màu. Chân tâm vốn thanh tịnh sáng suốt nhưng do điên đảo thì biến ra đủ loại vọng tưởng càn loạn giả dối. Nay Phật khuyên A-nan nếu phát tâm tu chứng Tam-ma-đề của Phật, nên thực tập ba thứ tiệm thứ này.
Tiệm có nghĩa là dần dần, tu dần dần, học hiểu dần dần và chứng đắc dần dần từ quả vị thấp đến quả vị cao.
Đốn là nhanh chóng, thẳng tắt vượt bậc. Như tu thiền tông hoặc nghe pháp liễu nghĩa đại thừa, bậc thượng căn liền tỏ ngộ một cách sâu sắc, không bị sự phân vân đấu tranh trong quá trình nhận thức chân lý. Do đó, sự giải thoát giác ngộ vượt bậc không bị hạn cuộc bởi thời gian ‘khảy móng tay lên bậc vô học’.
Còn ở đây ngài dạy chúng ta từ sơ tâm cho đến thành thánh quả có ba thứ học từng thứ lớp và đi dần dần (tam tiệm thứ). Ví như một cái bình từ vô thủy đến giờ đựng tham, sân và si. Nếu bây giờ muốn thành một pháp khí để chứa đựng Phật pháp, để thành Phật, thì việc đầu tiên là phải súc bình, dùng chất thơm rửa sạch bình rồi mới đựng nước cam lộ nghĩa là phải dùng ba tiệm thứ này để rửa thân tâm của mình. Ba thứ này là:
1. Trừ trợ duyên sanh tử.
2. Khoét tánh phàm phu tức là giữ giới.
3. Trái với nghiệp hiện tiền.
Ngoài thì trừ duyên, trong thì giữ giới, không buông lung theo tánh phàm phu nữa. Tu ngay sáu căn, nghiêm hộ ngay sáu căn, ngay khi gặp cảnh, để ý cái tâm, hộ không cho tham, sân, si nổi lên. Đó là đạo nghiệp của bậc chân tu.
Tiệm thứ nghĩa là số một mình làm được rồi thì lên đến số hai rồi đến số ba. Dĩ nhiên chúng ta đi thấp nhất rồi lên nấc hai, rồi lên nấc ba. Ngôi nào cũng thế từ thấp đến cao, hẹp đến rộng, cứ thế từ từ thứ lớp trừ cái duyên, tránh cái nhân rồi tu ở sáu căn cho đến ngày thành Phật chỉ tu ba việc này nên gọi là ba tiệm thứ.
TRỪ CÁC TRỢ DUYÊN SANH TỬ
Thế nào là trợ nhân?
A Nan, 12 loài chúng sinh đó trong thế giới, không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà an trụ, nghĩa là, nương theo đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực; vậy nên Phật bảo tất cả chúng sinh, đều nương với cái ăn mà an trụ.
A Nan, tất cả chúng sinh, ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết; vậy, các chúng sinh, cầu Tam ma đề, nên dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay nầy, ăn chín, thì phát lòng dâm, ăn sống, thì thêm lòng giận. Những người ăn rau cay đó, trên thế giới, dù biết giảng nói 12 bộ kinh, Thiên tiên 10 phương, hiềm vì nó hôi nhớp, đều tránh xa cả; các loài ngạ quỷ v.v... nhân trong lúc người kia ăn rau cay, liếm môi mép của người đó; người ấy thường ở với quỷ một chỗ, phúc đức ngày càng tiêu, hằng lâu không được lợi ích. Người ăn rau cay đó, tu phép Tam ma đề, Bồ Tát, Thiên tiên, Thiện thần thập phương không đến giữ gìn ủng hộ; Đại lực Ma vương được phương tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết pháp cho người kia, chê phá cấm giới, tán thán dâm dục, nóng giận, si mê; đến khi mệnh chung, tự mình người ấy làm quyến thuộc của Ma vương; khi hưởng thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục Vô Gián.
A Nan, người tu đạo Bồ đề, phải đoạn hẳn năm thứ rau cay; ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất [2].
Ăn lành thì sống, ăn độc thì chết. Mình có thích những nguy hiểm này cho nên đây Đức Phật mới minh bạch nói rõ sự thật nguy hiểm là như thế nào. Như con nít bảo cấm đừng ra nắng nhưng nó lại thích ra nắng, bởi nó mê, nó không biết phân biệt. Cũng thế chúng ta không biết nên đây Phật dạy những chỗ có rau cay (hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ) thì hộ pháp với chư thiên ít ở đó, thường là nơi của các quỷ có mặt.
Chúng ta đừng đến chỗ rau cay, ăn rau cay vì mình đến và tiếp xúc hoặc ăn dùng chỗ đó thì thông thường mình gặp ma quỷ. Vì ma quỷ thích ngửi, ưa mến năm món hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ, nên người ăn ngũ tân này là quyến thuộc của ma, cùng với ma quỷ ở chung một chỗ và khiến vị này phúc đức ngày càng tiêu, hằng lâu không được lợi ích.
Duyên là rau cay mà tham, sân, si là nhân. Tránh duyên để cho tham sân đừng bật ra. Tham, sân, si thật ra không phải là duyên mà nó là gốc. Tránh duyên để cho những cái gốc đừng bật ra, tức tránh năm thứ rau cay bởi vì ăn sống thì nổi sân, ăn chín thì nuôi lòng dâm dục, vì vậy tránh duyên không ăn những thứ này. Người nhập vào chánh định phải dứt bỏ năm thứ rau cay này. Dù pháp sư có giảng thuyết 12 bộ kinh, nhưng còn dùng ngũ tân, thì hộ pháp, tiên, chư thiên tránh xa không đến, còn ma quỷ thì đến gần liếm môi liếm mép. Vì bản chất ma quỷ là một loại chúng sanh hay thích làm những điều ác, cho nên Đức Phật khuyên chúng ta không được dùng những thứ này giống chúng ma quỷ.
Đức Phật chỉ đưa ra một thứ trợ duyên là năm thứ rau cay, chứ thật ra chúng ta có không biết bao nhiêu nhân duyên xung quanh đều là những trợ duyên đưa đến sanh tử. Những việc không có lợi ích cho sự tu hành, phá rối thì mình đều phải trừ hết, chứ không phải chỉ có rau cay. Cả đời sống của chúng ta ở trong gia đình, xã hội, bao nhiêu thứ duyên để cho tâm của chúng ta bật ra tham, sân. Khi tâm của mình bật ra tham sân thì đó là tướng, là gốc của ngu si, tưởng thật nên nổi tham sân.
Bây giờ phải tránh những duyên, bởi vì duyên khiến cho mình huân tập. Mình biết cô đó ghét mình, không thích mình, mỗi khi cô trông thấy mình, cô có những dáng điệu khiêu khích, cô có những lời nói chát chúa, inh tai, nhức óc thì mình sẽ nổi sân lên. Biết cô đó có chỗ ác ý đó thì mình nên tránh đi, chứ đừng nghĩ không cần, ta cứ đối đầu, cứ đi trước mặt cổ để chọc cổ, gợi thù oán lẫn nhau thì không nên, phải tránh duyên đi để nhẹ nghiệp cả hai.
Những người nói nhiều hay tranh cãi khiến trong chúng không được bình an thì phải ra ngoài chúng chứ không ở trong chúng được. Kêu ra ngoài chúng là trừ trợ duyên khiến cho trong chúng được bình an tu hành.
Chúng ta phải cẩn thận, không những chỉ để tránh năm thứ rau cay mà sáu căn gặp sáu trần, tâm của chúng ta phải cẩn thận tránh duyên, đừng để những tham, sân, si sanh khởi.
Thế nên, đầu tiên Đức Phật dạy chúng ta phải rời cha mẹ vào chùa, đó là tránh duyên. Bởi vì ở nhà bố mẹ thương quý con, bao nhiêu cái hay cái tốt vơ về con rồi, mà hễ trái cho con mình thì sân giận. Chính tình thương yêu của cha mẹ là cái gốc để cho mình bật cái tham sân lên và tăng trưởng ngã ái.
Vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta phải xuất gia, chính là tránh cái duyên sanh tử, tránh cái duyên tham sân, thế cho nên gia đình, xã hội, tất cả đều là duyên sanh tử. Bởi vì, cha mẹ cho đến tất cả mọi người đang sống trong vòng ‘Hoặc nghiệp khổ’ mê hoặc, không tỉnh. Nếu mình cứ sống với các vị là mình chìm trong vòng ‘hoặc nghiệp khổ’, cho nên phải rời để tỉnh ra. Sau khi tỉnh rồi thì quay về nhắc nhở các vị trong gia đình tỉnh ra. Thế cho nên tránh được những trợ duyên sanh tử.
Cho đến khi xuất gia thì phải cạo đầu. Tóc của mình cũng là một cái duyên để chúng ta khỏi phải sáng vuốt chiều chải, thế nên Đức Phật dạy cắt đứt phăng đi cho xong chuyện. Nên ca dao có câu “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” là vậy. Ở ống mà muốn tròn cũng không được, ở bầu mà muốn dài cũng không được.
Ca dao nói như vậy để nhắc chúng ta đừng coi thường các duyên, nên chọn bạn mà chơi, chứ không có bừa bãi được, thấy những chỗ nào người ta đánh bạc, người ta uống rượu hay cho đến những người hay ưa bới móc kể xấu người này kia thì mình tránh luôn, đừng nghĩ người ta nói kệ việc người ta, không việc gì đến mình mà đây việc đầu tiên là tránh những duyên, cho nên cẩn thận chọn thầy, chọn bạn, chọn chỗ ở.
Chúng ta đang bắt đầu tu nên chúng ta cũng theo tam tiệm thứ này, trong nhà Phật lấy chữ hiếu làm căn bản. Bổn phận đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ coi như đó là cái gốc, đó là nền tảng.
Ấy thế mà Đức Phật bảo, chúng ta rời bỏ gia đình, rời bỏ ‘công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra’, phải từ biệt vào chùa, cắt đứt hẳn nếp sống gia đình, vì nếp sống gia đình còn nhiều duyên ràng buộc, không có nhiều thời gian để lo tu học như đời sống xuất gia. Thế cho nên Đức Phật khuyên bảo người xuất gia phải sống đời sống không gia đình để có nhiều thời gian tu học và để hướng tới đời sống an lạc và giải thoát đích thực cho tự thân và cho tha nhân.
Phải tránh duyên, phải rời gia đình, vào chùa, không được ra ngoài tụ lạc xóm làng, rồi theo cái duyên bắt chước sống giống người tại gia. Người xuất gia trân quý đời sống không ràng buộc gia đình thì họ có nhiều hoa trái an lạc và giải thoát, họ có nhiều thời gian tu tập và hướng dẫn người tu tập, họ phải sống môi trường tốt, một môi trường tập thể để có nhiều cơ hội làm mới và xây dựng tình huynh đệ lâu bền.
Các bậc Cổ Đức nói minh bạch ‘Hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn’. Con hổ hung mạnh mẽ lắm nhưng nếu nó lìa chỗ sơn lâm của nó thì nó sẽ bị người bắn chết. Người xuất gia sống không gặp môi trường tu học tốt, phần lớn họ thất bại nhiều hơn là thành công trong việc tu học và hiếm có cơ hội hướng dẫn đời sống tâm linh cho mọi người.
Tại làm sao bắt buộc phải ở trong chúng? Ở trong chùa, ngã ái, ngã chấp sẽ được mài dũa. Tuy học kinh điển nhiều, nhưng chấp ngã, ngã kiến vẫn ngấm ngầm ở trong tạng thức, cho nên mình dễ tha thứ cho mình, dễ bỏ qua những tâm niệm, chủng tử xấu của mình, cho nên phải có bạn đồng phạm hạnh ở đằng trước đằng sau, có người bên trái bên phải, trăm con mắt người ta ngó lại mình, người ta bắt mình phải sửa những sai sót.
Thế cho nên phải nhờ thầy, nhờ bạn mà chúng ta gột rửa được những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Những tâm này thường ngấm ngầm và tẩm độc trong lời nói, việc làm, ý nghĩ sẽ hiển lên ở hình dung, sắc tướng, từng cử chỉ, từng cái đưa mắt, từng cái mỉm cười, từng bước đi của chúng ta. Nó hiển lộ những cái độc ở trong tâm của mình thì những cái ấy phải nhờ những con mắt bên ngoài, người ta trông thấy rõ, người ta nhắc nhở và bắt buộc mình phải sửa đổi. Do đó, người ở trong chúng được nhờ chị em. Cho nên, Đức Phật dạy chúng ta là nương tựa lẫn nhau, sám hối lẫn nhau và được dắt dìu lẫn nhau, đời sống lục hoà trong chùa bảo đảm sự thanh tịnh, do đó chúng ta mới tu đến nơi đến chốn được, cho nên Đức Phật nói minh bạch ‘hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn’.
Muốn thành tựu đạo thánh hiền phải nhờ có thầy bạn, mình ở một mình thì nó cũng được chỗ an tĩnh nhưng con đường thánh hiền nhất là đối với những vị còn sơ tâm mới đặt chân cất bước xuất gia, không thể tin cậy ở một mình mà phải nương tựa đức của toàn chúng.
Tóm lại, người tu đạo bồ đề dứt hẳn ngũ tân cũng là cách để tránh duyên cho nhân tham, sân, si khởi. Bởi lẽ chúng ta thường coi thường những duyên, nhưng chính do cái duyên mà nó đưa vào cái nhân, cho nên những cái duyên phải thận trọng lắm.
Nhân đây nói bốn cách ăn, 12 loài chúng sanh nói trên đều phải nương bốn cách ăn này mới sống được. Thế nào là bốn cách ăn:
i. Đoạn thực: Ăn bằng cách từng miếng (bịnh nhân uống súp cà-rốt, cũng ực ực từng ngụm nên cũng gọi là đoạn), từng phần: cho súp vào thẳng đường ruột, thay vì miệng nhai thì nhờ máy xay nghiền giùm nên cũng gọi là đoạn.
Cõi nào có cách ăn đoàn thực? Trời, người, súc sanh.
Ba cõi này dùng:
- Ba trần làm thể là hương thơm, mùi hôi và không thơm hôi.
- Ba vị: ngọt, lạt, chua.
- Chạm: chạm dùng thức ăn hay ngửi từng mãng (đoạn) hương thơm thì no.
ii. Xúc thực: Lấy tâm sở tương ưng của sáu thức làm miếng ăn, tiếp xúc với cảnh vừa ưa thích của ý, yêu thích mừng giận, năm căn thỏa thuận, vui sướng làm cách ăn. Đây là cách ăn của quỷ, tức quỷ thần xúc chạm vào hương thơm của đồ ăn cúng thí mà no.
iii. Tư thực: lấy tư tâm sở hữu lậu của ý thức để chuyên tinh nghĩ nhớ (tư) chẳng dứt, chuyển thành cảnh thắng diệu thiền, giúp ích duy trì thân mạng của cõi trời.
Thiền duyệt vi thực, pháp hỉ vi thực: Trong đời sống hằng ngày, thực tập thiền định, đọc kinh sách, chúng ta nếm được pháp lạc của việc thực tập và chúng ta cảm thấy an vui, hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Đức Phật ngồi thiền 49 ngày không ăn vì sự an lạc của tinh thần tức tư thực duy trì thân mạng.
iv. Thức thực: thức thứ tám nối nhau giữ căn thân khiến chẳng rã hoại. Móng tay ra dài, tóc mọc, tế bào già chết đi, tế bào non sanh ra... đều là do thức thực duy trì và vận hành tiếp tục. Thức thực là món ăn bằng tâm thức. Là người tu tập, chúng ta không nên xem những phim ảnh, sách báo bạo động, không lành mạnh vì đây cũng là những chất không tốt cho thức thực.
Thật ra, bốn thánh sáu phàm chung đủ thức thực này chỉ có khác là mê và ngộ.
Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn sẵn trong sáng gọi là Như lai tạng. Vì nó duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu, phi có, phi không, phi trụ và phi chẳng trụ. Đây là cách ăn bằng cách vốn có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh trụ. Còn như những người sống ở địa ngục sống bằng tâm thức, cho nên cũng gọi là thức thực.
Chúng ta có đoạn thực, tư thực và thức thực. Khi chúng ta ngồi thiền cảm thấy an lạc thì năm hay sáu tiếng đồng hồ vẫn không nhúc nhích, không tê chân, không muốn đứng lên, không thấy đói bụng, mà nhẹ nhàng khinh an thì đó cũng là trạng thái của ý thức, thức thực và tư thực.
Ngay cả đến tứ thiền như sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và tứ không như không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng là thiền duyệt vi thực, tư thực tức dùng định lực duy trì mạng sống. Nhưng dù định lực Tứ thiền hay Tứ không có kéo dài mạng sống đến mấy vạn kiếp nhưng cũng có ngày hết và rơi xuống, vì chưa chứng thực được diệu chân như tánh tức định Thủ Lăng Nghiêm.
Điều này cho thấy đường đi của ta còn dài và thấy tánh rất khó.
KHOÉT BỎ CHÁNH TÁNH CHÚNG SANH
Thế nào là chính tính?
A Nan, chúng sinh như vậy vào Tam ma đề, cốt yếu trước hết, phải nghiêm chỉnh giữ giới thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.
A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh, mà ra khỏi được ba cõi, thì thật không có lẽ như vậy. Nên xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù. Trước hết, phải giữ tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ cái thân không lay động; về sau, hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ Tát, nắm giữ cái tâm không móng lên. Cấm giới đã thành tựu, thì ở trong thế gian, hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau; đã không làm việc trộm cướp, thì không còn mắc nợ nhau và cũng khỏi phải trả các nợ kiếp trước trong thế gian. Con người thanh tịnh ấy, tu phép Tam ma đề, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được thập phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, chính mình vâng lĩnh thánh chỉ của Phật, được phép đại thần thông, đi khắp thập phương thế giới; túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm; ấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai. [3]
Việc thứ nhất vào chùa xuất gia để tránh duyên sanh tử.
Việc thứ hai tiếp theo là khoét bỏ chánh tánh chúng sanh tức là chúng ta bắt đầu thọ giới sa-di-ni, thức-xoa, tỳ-kheo-ni từ thấp lên cao. Bởi vì chúng ta từ bao thai lấy máu nhơ làm bản chất, lấy máu mà kết thành da thịt xương, cho nên bản thể của chúng ta là vô minh, là cái ngu muội, bao nhiêu những mê lầm từ vô thủy đến giờ vẫn sống trong thói quen, trong nếp sống mê muội.
Vì thế phải khoét cho sạch, y theo giới luật, học kinh để tỉnh ra, có một tầm tri kiến cho nó đúng, rồi nếp sống hàng ngày phải ở trong kỷ luật, đi con đường thánh hiền, từng hơi thở, từng bước đi, từng tiếng nói chúng ta phải tập, phải theo các thánh hiền, chuyển bản chất vô minh ngu muội, chuyển thành trí tuệ bồ đề sáng suốt. Đây là nấc thứ hai.
Khoét bỏ chánh tánh chúng sanh tức phải đi ngược lại, làm chủ mình đừng theo những tánh ham muốn tài, sắc, danh, lợi, ngủ, nghỉ nữa. Những tánh này thành tánh của mình rồi, thành con người của mình rồi, nên muốn bỏ khó lắm, không thể chỉ nạo vỏ sơ sơ là được, mà hãy khoét sâu vào trong để lấy ra. Ví như bị bịnh ung thư, buớu độc, phải giải phẩu bên trong để lấy ra. Khoét bỏ lòng tham, lòng thâu vào, lòng tự cao, ngã chấp, ngã kiến, ái kiến... tức là nhân chánh yếu để đưa về đọa lạc. Nhân này làm tâm tánh của mình, nhận tham làm mình, lấy cái tôi nóng lắm làm tánh thể của mình. Phải nạo khoét cho sạch ra vì nó đã gắn liền vào da vào thịt, nó là máu, cho nên bây giờ chúng ta bỏ nó không phải dễ, cho nên nạo sạch những cái mà chúng ta đã lầm.
Vào tam-ma-đề là chánh định cốt yếu để giữ giới luật cho thanh tịnh, trong các giới luật đặc biệt là giới đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt là thứ làm cho người ta say sưa mê muội phải rửa cho sạch những lòng ái nhiễm sát sanh này.
Tại sao mình bỏ tánh phàm phu mình lại đau? Làm sai một việc gì đó, thầy tổ, ba má rầy liền ngồi khóc hu hu, hoặc đùng đùng cãi lại, thế nên rất khó khoét tánh tự ngã hay hỗn láo này. Ai nói xấu mình, liền nói xấu lại nên chúng ta chưa khoét, hay chọc thủng được lưới chấp thủ.
Da thịt mình làm bằng máu mà máu là do mình ăn cơm, uống nước vơ vào thân. Tâm của mình tạp vào da thịt, kết thành thịt xương, thiết tha nhận những cái đó cho là mình. Bây giờ phải vứt nó đi, bỏ lòng tham, chấp ngã về thân này, chúng ta chịu không nổi. Thâu vào gọi đó là lòng tham, thế nên ai nắm lấy mình, đụng đến mình, mình giận. Ai nâng niu chìu chuộng săn sóc mình, mình thương, đó là tánh chúng sanh.
Những cái tham giận, chính mình nhận làm thể chất của mình rồi, thân thể da thịt xương của mình, mình nhận là mình rồi, bây giờ vứt đi thì mình đau mình xót, khó khăn lắm, chứ không dễ gì mỗi chốc là khoét được, cho nên giữ những giới ‘không sát sanh’ để không ăn thịt chúng sanh, trưởng dưỡng lòng từ. ‘Không trộm’ để đừng tham vơ vào mình, trưởng dưỡng lòng bố thí.
Bốn giới: không sát, đạo, dâm, vọng là gốc của các giới khác, phải giữ như băng sương, tỉ mỉ từng tâm niệm, từng lời nói, việc làm. Giới-định-tuệ là ba cái liên quan đạo hạnh không thể rời nhau.
Miệng định nói lời cho bỏ ghét thì dừng lại; tay định lấy trộm bánh ăn thì dừng lại; bước chân định dẫm con kiến thì nhẹ nhàng né đi đường khác, phải có lòng từ, phải có năng lực, định lực thì mới giữ được giới, chứ tán loạn bạ đâu nói đấy thì làm sao mà giữ được giới.
- Phải có trí tuệ mới biết phải trái.
- Phải có định lực để kèm thân miệng, kèm thân miệng tập khí đừng cho buông lung.
Nếu biếng nhác chẳng siêng tu định lực, giới định tuệ thì cứ làm phàm phu hoài, sanh tử luân hồi hoài, không khoét được tánh phàm phu, không khoét được phận trong của mình. Nó vốn là tánh ngoài mà mình nhiễm quá lâu ngày, thành phận trong, như giặc chiếm nhà lâu ngày nghiễm nhiên trở thành ông chủ nhà.
Tập khí là thói quen từ nhiều kiếp, nó vẫn tiềm ẩn ở trong tâm. Có những người thật lòng không muốn đi ăn cắp, nhưng vì tập khí thấy của để đó, tay cứ tấy mấy muốn vơ về mình, phải trì chú để tuyệt duyệt những tập khí để chế ngự tà tư, mới bảo hộ được giới mình mà mình đang hứa giữ.
Hễ chuyên trì chú thì tâm không có những mống nghĩ hư vọng, nhờ thần lực của thần chú cho nên những tập khí, những thói quen từ vô thủy nó không có khởi ra được. Vì vậy, giữ giới là để buông xả, buông bỏ những tánh khí. Giữ được giới là chúng ta đã có một sự cố gắng rất nhiều.
Bây giờ, những vị xuất gia và nhất là những vị đồng chơn học đạo (tức vào chùa khi tuổi còn bé, còn nhỏ) và giữ các giới được hoàn chỉnh là những thánh nhân hiện đời. Vì vậy, chúng ta phải kính trọng chúng xuất gia. Bậc xuất gia phải sống đời sống lìa bỏ gia đình sống không gia đình, sống đời sống uy nghi và phạm hạnh để làm mẫu mực cho nhiều người, mọi ham muốn thế gian nên xa lìa và buông bỏ.
Nếu còn ái dục thì còn luân hồi sinh tử, còn trộm cướp còn có kiếp này sang kiếp khác để đền trả, chứ không phải mình lấy của người ta là xong. Nhất là chúng xuất gia ở trong chùa, thí chủ cúng dường tức người ta đến bố thí cho nhà chùa tức là cho Tam Bảo. Nhưng nếu chúng ta sống không đúng lời Phật dạy mà thọ dụng tùy tiện thì chúng ta phải mắc nợ tài vật của đàn na tín thí. Nhưng nếu chúng ta tu tập thanh tịnh, chúng ta sống đời sống hạnh phúc cho số đông, thì của đàn na tín thí đó sẽ là phương tiện hữu ích thiết thực cho việc xây dựng Tam Bảo, thì chúng ta an lạc và không bị mắc nợ. Do vậy, tăng chúng phải thực hành đời sống an lạc để đem lại hạnh phúc cho nhiều người. Sống đúng nếp sống thánh hiền, xa nếp sống đọa lạc.
Nhân giới đó sanh định, sáu căn thanh tịnh là nhờ chúng ta giữ giới được trọn vẹn.
Nhân định sanh tuệ tức viên tròn ý nguyện xuất thế.
TRÁI VỚI NGHIỆP HIỆN TIỀN
Thế nào là hiện nghiệp?
A Nan, người giữ gìn cấm giới thanh tịnh như vậy, tâm không tham dâm, không hay giong ruổi theo lục trần ở ngoài; nhân không giong ruổi, tự xoay lại về tính bản nguyên; trần đã không duyên, thì căn không ngẫu hợp với đâu nữa; trở ngược dòng về chỗ toàn nhất, sáu cái dụng không hiện hành, cõi nước mười phương sáng suốt thanh tịnh, ví như ngọc lưu ly, có mặt trăng sáng treo ở trong ấy. Thân tâm khoan khoái, tính diệu viên bình đẳng, được đại an ổn, tất cả mật viên tịnh diệu các đức Như Lai đều hiện trong đó; người ấy liền được Vô sinh pháp nhẫn.
Từ đó, lần lượt tu tập, tùy cái hạnh phát ra mà an tập các thánh vị, đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.[4]
Tiệm tu cái đầu là vào chùa tránh duyên sanh tử, rồi cái thứ hai là giữ giới rồi, tiến lên việc thứ ba là trái với nghiệp hiện tiền.
Chúng ta là những vị vào chùa đã lâu, thọ giới rồi học kinh và đồng thời phải tập cái thứ ba là tỉ mỉ từng tầm nhìn, từng niệm từng niệm quay về soi rọi lại mình, làm chủ mình từng niệm sáng suốt, tự tri mình.
Công phu này là mỗi khi mắt nhìn, tai nghe, mỗi một niệm mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm suốt ngày sáu giác quan đối chạm với sáu trần, chúng ta phải tập tuệ giác hiện tiền, lúc nào cũng phải sáng suốt. Lúc nào cũng phải tỉnh thức để ý, bởi tâm ý thức của mình Đức Phật ví như con vượn nó nhảy từ cành này sang cành kia suốt ngày. Đức Phật cũng ví chúng ta như người chăn trâu, lúc nào cũng phải tỉnh thức cảnh giác, không để cho vọng tâm nó mở ra các nguồn tâm tham si. Đây là công phu mà người tu phải tỉ mỉ, cho nên phải ở chỗ an tĩnh vắng vẻ, tránh tất cả những ồn náo để sáng suốt quay về soi mình từng tâm niệm, làm chủ mình từng tâm niệm, có như vậy chúng ta mới thanh lọc được những tập khí từ vô thủy. Đây chính là việc mà hiện tại chúng ta đang phải làm.
Do kiếp trước có túc duyên nên giờ chúng ta có lòng tin về lý luân hồi, nhân quả, thiện ác nên chúng ta giữ giới luật của Đức Phật không dám sai phạm. Trái với nghiệp hiện tiền tức là hiện tại chúng ta có chánh báo (thân mình) và cảnh chúng ta sống là y báo.
Nếu nghiệp hiện tiền của mình hoàn toàn là nghiệp tốt do kiếp trước tạo những nghiệp lành thì bây giờ chúng ta sẽ có đầy đủ như ý muốn, sáu căn được gặp những cảnh thuận lợi. Có thí chủ cứ mang tứ sự đến cúng dường cầu phước. Thế thì khi mắt trông thấy vật cúng dường, thấy sự tùy thuận của mọi người, phật tử cung kính lễ bái, tai nghe tiếng khen ngợi, miệng được ăn những món ngon, mũi ngửi mùi thơm, thân đắp những y áo mát dịu sang trọng, được sống trong cảnh chùa thanh tịnh mát mẻ, không phải lo nghĩ, sáu căn yên ổn. Cảnh hiện tiền thật là trang nghiêm phúc đức, yên vui... toàn là những chuyện vừa ý muốn.
Tuy nhiên, bậc trí phải tuệ tri quán biết những điều này là phúc đức kiếp trước để lại. Nếu hiện tại mà mình không tu hành, khởi tâm kiêu mạn cậy mình thì phúc đức dần dần tiêu mòn hết đi và bị cảnh nó chi phối. Cho nên thấy những cảnh đó đừng cam tâm yên lòng thọ dụng. Dùng trí Bát nhã biết thân mình huyễn không thật, sống với tâm thanh tịnh, trái với nghiệp phúc đức hiện tiền mà bình tĩnh điềm đạm thấy ngoại cảnh không thật.
Nếu nghiệp hiện tiền của mình là nghiệp xấu, gặp toàn những cảnh trái tai gai mắt, bị phỉ báng, thấy những cái không vừa ý, thất bại, chống đối, thì chúng ta cũng quán chiếu biết đây là nghiệp báo của mình, đừng phiền, đừng giận. Phải quán vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh như vậy thọ nhận nhưng nhẹ nhàng vì huyễn hoá hiện ra để tâm đừng sầu, đừng nhọc, giữ tâm bình yên, lắng đọng, yên tịnh và an hoà, thì hy vọng mai sau về cảnh an lành.
Nghiệp hiện tiền nếu tốt, chúng ta cũng biết huyễn, không bận lòng làm chủ tâm mình, không có để cho hoàn cảnh chi phối theo nghiệp hiện tiền. Một lòng trì giới thanh tịnh, quay về tánh bản nguyên căn bản bồ đề của mình, căn không vướng mắc trở về toàn nhất.
Trở về toàn nhất bởi vì người thế gian chạy rong theo sáu trần, bây giờ ngược dòng buông cảnh trần trở nhất tâm. Vị tu thiền thì cứ an định vào căn bản bồ đề. Vị tu tịnh độ thì nhất tâm niệm Phật, trở về toàn chân an định vào tánh Phật của mình, sáu dụng không hiện hành thì thân 1y, sáu căn an định lại, cõi nước 10 phương sẽ như ngọc lưu li, bởi vì cái tâm an định, an hòa. Tâm thanh tịnh ví như ngọc lưu li của mình, như là trăng sáng. Trí sáng của mình, tâm của mình thanh tịnh, khoan khoái, diệu viên bình đẳng.
Diệu viên tức là nhận được chân tâm bản tánh, còn thân mình là theo nghiệp báo. Thân này là cái giả tạm, không phải thật. Đang biết thấy, biết nghe, tánh ấy gọi là tánh A-di-đà vô lượng thọ không sanh không diệt. Thân này tan, chứ tánh biết thấy, biết nghe vẫn có. Ở con chó con mèo cũng vậy, thân mèo, thân chó tan, nhưng mà tánh biết thấy, biết nghe của nó vẫn thường trụ vô lượng thọ. Đến con sâu, con kiến, tánh A-di-đà vẫn bình đẳng với mình, nhận tánh A-di-đà này diệu viên cùng khắp.
Mê muội biến ra con cua, con cá, con người, con ốc, trời, địa ngục... hình tướng khác nhau nhưng tánh vô lượng quang biết thấy biết nghe giống nhau. Vị nào mà nhận được như thế thì người ấy hiện tại đang ở tịnh độ, bồ tát thánh hiền, an ổn, mật viên tịnh khiết hiện ở trong đó, những cái mà chúng sanh bình thường sẽ không biết.
Sở dĩ chúng ta không muốn làm ác, không muốn phạm giới, nhưng vẫn cứ tạo tội, vẫn bị nô lệ theo sự điều khiển của nghiệp lực hiện tiền, đó là do tập khí. Tập khí là thói quen từ nhiều kiếp, nó vẫn ở ẩn trong tâm.
Có những người thật lòng không muốn nói láo, nhưng đụng việc chưa kịp suy nghĩ là miệng nói thêm, nói bớt, đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Có vị xuất gia rồi nhưng vì khi xưa là vũ công hay nhảy múa nên đang đi khất thực mà nghe nhạc xập xình là tay chân ngứa ngáy, gõ gõ theo nhịp điệu nhạc, phải trì chú để tuyệt duyệt những tập khí, để chế ngự tà tư tán loạn mới bảo hộ được ý chí lập trường của mình.
Khi trì chú không được móng nghĩ hư vọng, nhờ thần lực của thần chú khiến những thói quen từ vô thủy không có khởi ra được thì chúng ta mới đi ngược lại, mới trái với nghiệp hiện tiền. Đời sống hàng ngày chạy theo thói quen, cứ đi cái đà xuống dốc. Bởi vì xuống dốc, đâm đầu xuống hố dễ lắm, còn bây giờ đi lên, leo dốc lên thì khó thoát hố thì thành vất vả, nhọc nhằn. Những thói quen tập khí, mê lầm tham, sân, si phải tan hết từ đáy lòng, từ ở trong tạng thức, những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, những thứ phiền não phải sạch hết mới tròn quả vị thánh.
Đức Phật dạy dù hoàn cảnh nào, địa vị nào cũng lấy ba món tiệm thứ làm nền tảng. Tu tam-ma-đề chánh định, là an định vào tánh nghe, là chọn một căn tánh hoặc thấy hoặc nghe hoặc hay hoặc biết rồi chuyên an định vào đó, tức là sống với căn bản bồ đề để lọc bỏ căn bản sanh tử, lọc bỏ ngũ trược.
Ý nghĩa của ba tiệm thứ này để trừ các điên đảo tán loạn. Chúng ta có cái điên đảo số một là thường ăn cơm, uống nước, thở không khí và hút ánh nắng mặt trời chế ra máu, da, thịt rồi gọi là nơi nương tựa, là chỗ ở, chỗ trụ của mình. Cho nên, các tổ cứ ví chúng ta như những con tằm kéo kén, nó cứ rút ruột và rút tơ ra xây thành một cái kén để có nơi yên thân, yên ổn, nhưng không ngờ chính cái kén đó là cái gốc để người ta bỏ con tằm vào nước sôi.
Chúng ta cũng thế, mê muội từ lúc ở bụng mẹ ra cho đến già chết cứ tối ngày lo ăn lo mặc không lo tu tập để làm nơi nương tựa tâm linh vững chãi cho mình. Chúng ta biết thân là ngục tù vướng mắc, cứ nhận nó làm thân thể của mình, chấp ta là thật, là điên đảo số một.
Chúng ta cho là có thân thật, rồi nhìn bên ngoài cảnh mình sống đây gọi là thế giới sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật, chấp cảnh là thật là điên đảo số hai.
Sáu thức nương gá vào cảnh và thân đó khởi phân biệt đo lường tốt xấu, lợi hại rồi sanh phiền não, chấp đó là tâm của mình là điên đảo số ba.
Trong thì chấp ngã, ngoài thì chấp pháp, cứ thế mà tạo nghiệp báo sát, đạo, dâm, vọng chuyển dẫn khởi chúng sanh và thế giới tương tục. Cho nên bây giờ cần tập tu ba tiệm thứ này để trừ cái điên đảo này. Như bình đã đựng thuốc độc, đã chứa ngũ trược trong tạng thức, thì phải dùng ba tiệm thứ này rửa cho sạch thoát hết những mê lầm, chướng ngại, chứa đựng được rồi mới nhận chứa đựng pháp thủy, tức là trở về sống với tánh chân như.
1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 639-42.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 642-3.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 643-4.
4 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 644-5.
Thích Nữ Giới Hương
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 642-3.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 643-4.
4 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 644-5.
Thích Nữ Giới Hương
0 comments:
Post a Comment