TTđTD - Giới Bồ tát dành cho cả tại gia và xuất gia, không chọn căn cơ, trình độ nào cũng thọ được hết, bởi vì ai cũng có thể giữ được, ai cũng có thể thành Phật được. Giới Bồ tát là để cầu thành Phật. Lúc thọ giới bồ tát, với tâm thành khẩn thì chúng ta sẽ đắc giới. Giới Bồ tát sẽ theo chúng ta đến suốt đời vị lai. Đức Phật hết lòng thiết tha chỉ dạy ý nghĩa và việc làm của từng giới, bởi vì giới chính là tâm chúng ta, chứ không phải bên ngoài đâu, giới nào cũng thế.
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (2)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (4)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (5)
CHƯƠNG VI: PHÁP SA-MA-THA
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (2)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (4)
LUÂN HỒI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM (5)
CHƯƠNG VI: PHÁP SA-MA-THA
Tôn giả A-nan sau khi nghe Đức Phật giảng về mê ngộ, ba tướng thế giới, chúng sanh và nghiệp quả tiếp tục, tức nghe xong năm câu hỏi trên, rồi bạch Phật khóc thưa rằng: Chúng con như những người chìm đắm trong bể khổ, lênh đênh phiêu bạt được Đức Phật chỉ cho nhà lớn (đại pháp, thâm pháp) nhưng không biết cửa vào. Nhà lớn tức tánh Phật đó, nhưng làm sao vào? Xin Đức Phật bậc vô thượng đại bi thanh tịnh bảo vương chỉ cho chúng con.
Đức Thế Tôn đã khéo khai ngộ cho tâm chúng con, dùng các nhân duyên như thế, phương tiện dắt dìu những kẻ chìm đắm ra khỏi bể khổ. Tuy được vâng nghe pháp âm như vậy, nhận biết tâm tính diệu minh Như Lai tạng cùng khắp thế giới mười phương, trùm chứa các cõi Phật bảo nghiêm thanh tịnh trong thập phương quốc độ; Nhưng Như Lai lại trách A-nan nghe nhiều mà vô dụng, không kịp thời tu tập. Nay A-nan, giống như người lênh đênh phiêu bạt, bỗng nhiên gặp vị Thiên Vương cho cái nhà tốt; tuy được nhà lớn, nhưng cốt yếu phải biết cửa mà vào; xin nguyện đức Như Lai không ngớt lòng đại bi, chỉ bày cho những kẻ mờ tối trong Hội nầy, rời bỏ pháp Tiểu thừa và đều nhận được con đường phát tâm tu tập đi đến vô dư Niết Bàn của Như Lai, khiến cho những hàng hữu học biết cách uốn dẹp tâm phan duyên lâu đời, đưọc pháp tổng trì, chứng nhập tri kiến của Phật.
Nhân đây Đức Phật bắt đầu giảng hai nghĩa quyết định trong pháp tu Sa-ma-tha.Nghĩa 1: Nhân địa Căn Bản Bồ Đề
Dùng hư không để ví với chính nhân.
“Thế nào là hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm? A Nan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các thầy muốn rời bỏ phép Thanh Văn, tu Bồ Tát thừa, vào tri kiến của Phật, thì nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân với chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả, là đồng hay là khác nhau. A Nan, nếu trong lúc tu nhân, đem cái tâm sinh diệt làm cái nhân tu hành, để cầu cho được cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa, thì thật không thể được. Do cái nghĩa đó, thầy nên xét các pháp, có thể làm ra trong khi thế gian, đều phải thay đổi diệt mất. A Nan, thầy xét các pháp, có thể làm ra trong thế gian, có cái gì là không hư nát, nhưng không bao giờ nghe hư không tan rã, vì sao? Vì hư không không phải là cái bị làm ra, do đó, trước sau không hề tan mất.” [1]
Đức Phật dạy xét về hai nghĩa quyết định lúc phát tâm, lúc tu nhân Samatha, phải nắm phần nhân tu:
1. Căn bản bồ đề là nghĩa quyết định thứ nhất
2. Thẫm xét rõ căn bản phiền não là nghĩa quyết định thứ hai.
Sa-ma-tha là phần lý thuyết phân biệt chân vọng.
Tam-ma là thực hành chân, căn bản bồ đề, căn bản trí.
Thiền-na: toàn chân tức vọng, toàn vọng tức chân tức được căn bản trí và ứng dụng hậu đắc trí.
Phần ở đây là giới thiệu Sa-ma-tha. Đức Phật nhắc lại, phân tách lại, minh bạch hai thứ căn bản để chọn dùng an trụ hay lọc bỏ. Vì sao Đức Phật được an lạc thường trụ, còn chúng con bị sanh tử luân chuyển? Đức Phật nói là do nhân tu và đưa đến cái quả như vậy. Vậy phải nắm nhân tu nào?
Hai nghĩa quyết định là nắm phần nhân tu quyết định:
1. Căn bản bồ đề:
a) Muốn cầu thành Phật vô sanh bất diệt thường trụ phải nắm cái giác mà giác này gọi là vô lượng quang, tức tánh sáng, tánh thấy nghe hay biết ở nơi sáu căn của chúng ta.
b) Nắm cái diệu dụng thứ hai là thường trụ tức giác này là vô lượng thọ, là tánh thấy nghe hay biết thường trụ mãi mãi không có sanh diệt. Thân đất, nước, gió, lửa này tan đi, hay tái sanh thân khác, cõi khác, tánh của chúng ta vẫn thường trụ.
Đức Phật A-di-đà lấy tên A-di-đà là bao hàm vô lượng thọ và vô lượng quang, đây là đặc tánh, diệu dụng của tánh Phật. Đây là nghĩa quyết định thứ nhất phải nắm làm nhân tu cho đúng, cũng như các pháp ở thế gian có làm ra nên có hoại diệt, chứ không nghe hư không hoại diệt hay tan mất, vì hư không không phải là cái bị làm ra, do đó trước sau không hề tan mất. Như bóng đèn có bị bể, có bị thay nhiều bóng đèn với nhiều hình dáng, sắc màu, kích thước, nhưng điện vẫn thường trụ và tùy duyên ở bóng nào thì hiện sáng bóng đó. Bóng có bể, điện không bao giờ mất.
Có một câu chân ngôn nói rằng:
“Xin đừng dựa tường vì tường sẽ ngả,
Đừng dựa giường vì giường sẽ sụp,
Đừng dựa cây vì cây sẽ nghiêng,
Đừng dựa người vì người sẽ chết,
Hãy dựa vào chính mình.”
Đừng dựa giường vì giường sẽ sụp,
Đừng dựa cây vì cây sẽ nghiêng,
Đừng dựa người vì người sẽ chết,
Hãy dựa vào chính mình.”
Dựa vào chính mình ở đây có nghĩa là nắm lấy tánh thấy nghe hay biết thường trụ và diệu minh của mình.
Nắm được căn bản bồ đề chân thật chứ đừng lẫn với vọng thức. Nắm được căn bản bồ đề, an định là được nhân tu, như đức Quan Thế Âm nắm lấy tánh nghe ở toàn thân này để tu tập gọi là nhĩ căn viên thông. Tánh nghe là tánh giác mà nó không sanh, không diệt, nó độc lập, không bận lòng đến vọng thân, vọng cảnh và vọng tâm. Nó có sự độc lập của nó. Mình an định vào nó, sống với nó, dần dần những mê vọng tan đi thì mình thành Phật.
2. Căn bản sanh tử:
Chúng ta phải lọc cho sạch bao nhiêu nhân duyên vô minh, đừng nhận làm mình nữa. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về năm ấm, Bát Nhã nói chiếu kiến năm uẩn đều không, còn Thủ Lăng Nghiêm nói phá xong năm lớp ngũ trược. Kinh A-di-đà cũng gọi là ngũ trược. Năm uẩn khi nào lọc bỏ hết thì tịch diệt hiện tiền, thì khi ấy mới trở về chân tánh của mình.
Đức Phật nào tu chọn nhân cũng có hai đặc điểm giác và thường trụ này. Phối qua Lý Tứ đế (hệ A-hàm trong 12 năm đầu Đức Phật thuyết) cũng hiện rõ hai nguyên nhân và hai kết quả:
1. Nhân thế gian (Tập đế): tham, sân, si
2 Quả thế gian (Khổ đế): bị tám khổ chi phối.
3. Nhân xuất thế (Đạo đế): thực hành bát chánh đạo
4. Quả xuất thế (Diệt đế): Niết bàn tịch diệt, không phiền não.
Đây là hai nghĩa quyết định trong thời quyền giáo ban đầu hoằng pháp.
Trở lại kinh Đại thừa Thủ Lăng Nghiêm, quyết định chọn nhân tu nào giữa năm trược, giữa thân tâm của chúng ta tức chọn nhân số một là căn bản bồ đề.
NGŨ TRƯỢC
“A-nan trong thân thầy, tướng cứng là địa đại, thấm ướt là thủy đại, hơi ấm là hỏa đại, lay động là phong đại; do bốn cái ấy ràng buộc, mà chia cái tâm tính diệu minh vẳng lặng cùng khắp của thầy, làm ra cái thấy, cái nghe, cái biết, cái xét, từ đầu đến cuối, tạo thành năm lớp ô trược.
Thế nào là trược? A Nan, ví như nước trong, bản nhiên là trong sạch, lại như những thứ bụi, đất, tro, cát, bản chất là ngăn ngại; hai bên bản nhiên thể chất khác nhau, không hợp nhau được. Có người thế gian lấy đất bụi kia, ném vào nước sạch, thì đất mất ngăn ngại, nước mất trong sạch, hình trạng đục vẩn, gọi đó là trược; năm lớp ô trược của thầy cũng giống như vậy”.
“A Nan, thầy thấy hư không khắp thập phương thế giới. Bên không, bên thấy, không tách rời nhau; có cái không mà không thật thể, có cái thấy mà không hay biết, hai bên xen lộn giả dối thành ra lớp thứ nhất, gọi là kiếp trược.
Thân thầy hiện ôm bốn món đại làm tự thể, che bít những sự thấy, nghe, hay, biết, thành bị ngăn ngại, và trở lại làm cho các thứ địa, thủy, hỏa, phong, thành có hay biết; các điều đó xen lộn giả dối thành ra lớp thứ hai, gọi là kiến trược.
Lại trong tâm thầy, những sự nhớ biết học tập, phát ra tri kiến, hiện ra tướng sáu trần, thì những sự đó, rời tiền trần không có tướng, rời tri giác không có tính, xen lộn giả dối thành ra lớp thứ ba, gọi là phiền não trược.
Lại tâm thầy ngày đêm sinh diệt không ngừng, tri kiến thì muốn lưu mãi ở thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần thì lại thường dời đổi cõi nầy cõi khác, những điều đó xen lộn giả dối thành ra lớp thứ tư, gọi là chúng sinh trược.
Cái thấy, cái nghe của thầy, bản tính vốn không khác nhau, do các trần cách trở, mà không duyên cớ gì, lại sinh ra khác nhau; trong tính thì vẫn biết nhau, nhưng trong dụng thì trái ngược nhau, cái đồng và cái khác đã mất hẳn chuẩn đích, xen lộn, giả dối thành ra lớp thứ năm, gọi là mệnh trược.”
“A Nan, nay thầy muốn cho cái sự thấy, nghe, hay, biết xa xa hợp với bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai, thì trước hết, phải lựa bỏ cỗi gốc sống chết, nương theo cái không sinh diệt mới thành tựu tánh yên lặng cùng khắp. Dùng cái yên lặng mà xoay các thứ sanh diệt hư vọng trở về nơi bản giác, được tánh không sanh diệt của bản giác làm cái tâm tu nhân, thì về sau mới viên thành chỗ tu chứng của quả vị. Như lắng nước đục đựng trong một cái đồ để yên, để yên mãi không lay động, thì đất cát tự chìm xuống và nước trong hiện ra, thế gọi là bắt đầu uốn dẹp các khách trần phiền não; gạn bùn hết sạch, chỉ còn nước trong, thì gọi là dứt hẳn căn bản vô minh; tướng sáng suốt đã tinh thuần, thì tất cả các điều biến hiện đều không gây ra phiền não và hợp với đức mầu thanh tịnh của Niết Bàn.” [2]
Đức Phật dạy biết giặc chỗ nào rồi mới diệt được giặc, mới an hưởng thái bình, như nhổ cỏ phải nhổ tậm gốc, như muốn nước trong thì phải lắng bụi, đất, tro xuống. Đất cát bùn làm nước bị đục vẩn, mất trong sạch, tức phải lọc cho sạch bao nhiêu nhân duyên vô minh đừng nhận làm mình.
Hãy xem điên đảo vô minh ở đâu để nhổ cho sạch? Theo lời Phật dạy điên đảo vô minh có hai:
Sanh tướng vô minh (căn bản, gốc vô minh) và chi mạt vô minh (nhánh, cành ngọn của vô minh).
Sanh tướng vô minh còn gọi là tam tế và chi mạt vô minh gọi là lục thô.
Tam tế là sanh tướng vô minh, chuyển tướng vô minh, và hiện tướng vô minh; lục thô (sáu căn thô phù, phù trần căn) là chi mạt vô minh.
Khởi Tín Luận nói: Tam tế là Vô minh nghiệp chướng, Năng kiến tướng và Cảnh giới tướng.
Thế nào là sanh tướng vô minh? Tánh của chúng ta duy nhất gọi là nhất chân pháp giới. Giờ muốn minh giác, khởi phân biệt một cái gì khác thế thì thành ra vọng minh, vọng giác. Khi tâm muốn phân biệt, tức là phải thấy một cái gì khác mình. Thế là vì mê mà chia ra làm hai (năng và sở, kiến phần và tướng phần, tinh thần và vật chất, chánh báo và y báo).
Chánh báo chia ra làm sáu tức sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và tánh giác theo đó mà chia công dụng thành thấy, nghe, ngửi, nếm, hay (năng minh) và biết tương ứng sở tri của sáu căn, tức tùy hình dáng cấu trúc của sáu căn mà điện toả sáng, tỏa công dụng ở sáu bóng đèn khác nhau. Y báo tức tướng phần, sở minh là thế giới bên ngoài, hư không, đất, nước, gió, lửa, sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Cái mê bắt đầu khiến thành có đồng, có khác đó gọi là sanh tướng vô minh. Và bắt đầu chuyển đổi từ trạng thái chân tâm mà thành thức thứ tám (gọi là thức, là mê rồi), chuyển tướng này hiện rõ và chia hai, không còn gọi là chơn tâm nữa, đây gọi là chuyển tướng vô minh. Từ chuyển tướng thành hiện tướng vô minh tức hiện tướng thế giới, chúng sanh và nghiệp quả, thứ lớp từ tế tới thô, thứ lớp thiên lưu biến đổi. Hiện tướng là minh bạch là chia hai. Nó từ sanh tướng vô minh đến chuyển tướng vô minh và cuối cùng hiện tướng vô minh, khi nó minh bạch. Vốn chân tâm bản tánh mà bây giờ gọi là thức thứ tám thành vô minh. Thấy có hư không và kết ám thấy có đất, nước, gió, lửa, kiến phần với tướng phần minh bạch.
Ba phần tam tế này hết sức vi tế khó hiểu chỉ có Phật và bồ tát với tuệ nhãn mới thấy biết được. Chúng ta là bậc phàm tình khó biết được, ngay cả sự chuyển động của hành ấm nơi căn thân của chúng ta như móng tay dài, tóc mọc, tế bào da tan đi, đói cơm, khát nước... chúng ta cũng không biết, huống chi là những chuyển động vi tế vô hình khác.
Ngoài ra, còn có tri tướng vô minh tức là mình thấy mình, có phân biệt. Tôi nghe, ngửi, nếm, nhận ra những hình tướng, có hữu tình chúng sanh là tri tướng.
Khổ tướng là tướng cuối cùng hiển hình ví dụ loài người thì có khổ tướng của tám khổ [3] hoành hành chi phối.
Tương tục tướng: bắt đầu có tri tướng phân biệt, có khổ tướng hữu tình, rồi vọng tâm, vọng cảnh đối đãi sanh ra. Cảnh đây là cảnh trong tâm thức hiện lên, chứ không phải là cảnh bên ngoài này. Mình muốn phân biệt cho nên mình thấy, mình nếm, phát khởi lên cho nên gọi là vọng tâm. Thế thì dẫn khởi thức thứ bảy xuất hiện gọi là tương tục tướng.
Chấp thủ tướng: từ thức thứ bảy mới dẫn khởi ra thức thứ sáu chạy ra bên ngoài vơ sáu trần nhiễm trước, chấp thủ hình tướng và danh tự tướng, khư khư nắm giữ cho là thật.
Kế danh tự tướng: bởi vì chấp thủ những hình tướng tính toán nhiễm trước cho nên đặt tên là kế danh tự tướng.
Tóm lại, khi tánh giác chia làm hai phần: kiến và tướng phần. Kiến là hữu tình chúng sanh. Kiến phần của tôi khác với kiến phần của cô A. Vì tôi thấy là tôi thấy, cô A thấy là cô A thấy, chúng không đồng nhau. Nhưng nó không khác vì tánh thấy của tôi và cô A là đồng thể. Từ không đồng không khác nó sanh lao, đối với vọng cảnh đối đãi sanh lao. Mê muội thấy hư không, thấy đủ chuyện đất, nước, gió, lửa, kiến phần, tướng phần, hữu tình chúng sanh... Rồi tâm thức cứ tìm và phân biệt mãi nên gọi là sanh lao, tức trong lúc phân biệt có chấp ngã, có ta, nên có thức thứ bảy. Cứ thế lao lực, lao lực mãi thành ra thức thứ sáu chấp pháp, nhiễm trần, thủ danh chấp tướng (chấp cựu thù tướng), cái này của tôi, cái kia là của cô kia. Nhận có cái ta đối lập với vạn pháp. Vọng tâm lao nhọc chính là thức thứ bảy.
Nó đã là giác thì nó phải là minh. Còn phải tìm hiểu là minh thêm, khởi niệm tìm hiểu, khởi niệm phân biệt, thế cho nên thành vọng minh. Tam tế (Sanh tướng vô minh, Chuyển tướng vô minh, Hiện tướng vô minh) là cái khó biết, chỉ có Phật và Bồ tát mới biết. Sáu tướng (sáu căn) là lục thô. Thô là chỗ mình nhận ra được, tự nhận ra mình đang thấy, đang biết, đang biết phân biệt ở thân của mình. Suy nghĩ rồi từ thân của mình mà nhận ra. Hiểu để nhận ra. Đây chư Phật, chư tổ cũng mong cho chúng ta nhận hiểu, cứ vặn nghĩa này, nghĩa kia chỉ để mở cửa những cái khó ra. Nếu chúng ta không chịu tìm hiểu thì đành vậy chứ không biết cách nào. Đây là các ngài đang nói về tạng thức của chúng ta từ hình thành đến phát triển và tiếp nối.
Khác với cái khác mà lập ra cái đồng cũng gọi là hiện tướng. Có đồng, có khác thì sẽ sanh ra cái không đồng, không khác. Không đồng vì thân căn bốn đại chấp ngã. Đồng vì kiến tinh diệu minh thấy mình và mọi người cùng tánh giác. Trong đồng nhưng có khác vì mình thấy là mình thấy, người thấy là người thấy cho nên nhận ra có mình và người. Vọng tâm nên thấy có cảnh và có người khác thành ra đối đãi sinh lao, cứ tự vẫn đục lẫn nhau, cứ thế kế toán tự tướng phân biệt lợi hại theo danh chấp tướng mỗi ngày nó thêm nặng ra. Chính thân mình thành ra cái lộn tùng phèo. Yêu cái này ghét cái kia, không bằng lòng cái kia, cái nọ, tức là chính tư tưởng mình khởi lên trần lao phiền não. Còn tự vẫn đục là khi thì tham, khi thì sân.
Tam tế lục thô là lấy thước để đo tầng lớp mê của chúng ta từ tế đến thô. Mê muội thấy ra hư không, thấy đất, nước, gió, lửa thành ra có hai. Mình phân biệt đó là trí tướng mà tương tục phân biệt gọi là tương tục tướng. Chúng ta tham, sân, si tạo nghiệp, từ tạo nghiệp mà cảm quả báo luân hồi sanh tử. Bản giác vốn vô sanh bất diệt, vô lượng thọ, vô lượng quang, là tánh A-di-đà của tất cả. Từ bản thể ấy, chúng ta theo nghiệp biến hoá và làm đủ loài như loài người, súc sanh, ma quỷ, địa ngục, trời và a-tu-la thành lục đạo luân hồi giả tạm, cứ biến hoá nay hết thân này, mai đến thân kia. Vọng tâm là nghiệp quả và cứ thế nối tiếp cho nên phần trước Đức Phật đã giảng về hư vọng của thế giới và hư vọng của nghiệp quả.
Thế nào là chi mạt vô minh? Mạt là cái ngọn. Mê của mình là cành và ngọn. Vô minh ở đây tức căn, trần, thức khai nguồn ba độc tham, sân, si. Thế nào là căn trần thức? Trước nhất là có con mắt thấy những bóng ảnh gọi là trần. Do ánh sáng mặt trời chiếu, phản chiếu cái bóng hiện vào thần kinh con mắt không hư, theo nghiệp làm người, từ nhỏ nhờ cha mẹ, nhà trường đã dạy cho chúng ta biết đây là bình bông. Khi biết đây là bình bông tức là một nhãn thức đã sanh… Nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy.
Thấy, nghe, ngửi, nếm hàng ngày là trần, nhận thân đất, nước, gió, lửa làm mình, rồi nhận cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cho là cảnh bên ngoài, do đó khởi tham, sân, si. Từ đó, nhận ba độc tham, sân, si này làm tâm tánh. Vậy cái vô minh điên đảo từ gốc sanh tướng vô minh, chúng ta bây giờ đang nhận vọng tâm làm tánh của mình, nếu chúng ta muốn uốn dẹp là phải uốn dẹp từ đó.
Bỏ hai độc tham sân, mà muốn đừng ngu si nữa thì phải quan sát vọng thân, đừng nhận làm mình, đích chỉ vọng thức phan duyên. Phan là mình cứ duyên theo tiếng nói, hình sắc, lời ngon ngọt... Chúng ta duyên vào những cái thấy, nghe, ngửi, nếm. Vì chúng ta phan duyên nên nó mới mở ra ba độc tham, sân, si tạo sát, đạo, dâm, vọng. Vậy sát, đạo, dâm, vọng là từ đâu ra?
Tiếp theo phần ngũ trược này là phần Đức Phật sẽ đích chỉ đầu mối lưu chuyển chính là sáu căn. Sáu căn duyên theo sáu trần sanh ra sáu thức. Nhãn thức phân biệt cái thấy, nhĩ thức phân biệt cái nghe, tỉ thức phân biệt cái ngửi, thiệt thức phân biệt cái nếm, thân thức phân biệt cái xúc chạm, ý thức mới tính toán, mở ra ba độc tham, sân, si, cho nên sáu căn là gốc sanh tử để sáu thức nương tựa. Trong 12 nhân duyên, xúc tức là căn gặp trần. Xúc rồi thọ. Thọ là thấy khổ thấy vui, rồi ái sanh yêu, ghét thì sanh ố, rồi từ ái ố mới đến thủ. Thủ ở đây gọi là thủ chấp. Yêu là quý thân, rồi đến hữu tức là có tạo nghiệp. Từ hữu rồi sanh ra lão bịnh tử. Ở trong 12 nhân duyên Đức Phật dạy chúng ta để ý ngay từ lúc xúc chạm, mỗi khi sáu căn chạm sáu trần phải hộ sáu căn ngay thì chúng ta tránh được chi mạt vô minh.
NGŨ TRƯỢC
Mê muội thấy có hư không, kết ám lại có đất, nước, gió, lửa tức là sắc. Sắc tạp vọng tưởng thành có thân tâm và cảnh giới tạo thành năm lớp ô trược. Trược là mê lầm, nhơ bẩn, đau khổ, đọa về vô thường, mất đức chân thường, đức chơn tịnh, đức chơn thật và đức an vui.
Mất đức chân thường vì thân ta và cảnh xung quanh đang bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi luật sanh già bịnh chết, sanh trụ dị diệt; trong khi cõi Cực lạc thì không bị chi phối bởi sự vô thường này.
Mất đức chân lạc nên buồn rầu tối ngày, khóc hu hu tối ngày, khổ phiền não trong lòng vì phải nói chuyện hay làm việc với người mình không hạp.
Mất đức thanh tịnh nên người hôi hám, bất tịnh, có chín lỗ trong thân toát dơ bẩn. Tâm cũng đắm nhiễm, loạn động, không tinh khiết.
Mất đức chân ngã nên thân muốn bịnh là bịnh, chết là chết. Đau lưng, đau cổ, uống thuốc nó bớt thì mừng, nó không bớt thì ngồi im niệm Phật nhìn xem thân thể nó xáo động bịnh hoạn ra sao, chúng ta không làm gì được, đầu hàng chịu thua, không làm chủ được thân mình, đưa cả sấp tiền cho bác sĩ cứu mà không được, thân phải tan rồi chết.
Những cái trược này bao phủ ở năm phần tức nhìn thân tâm chúng ta thì thấy có năm lớp vô minh gọi là ngũ trược:
1. Kiếp trược: gốc bắt đầu tánh Phật của chúng ta thường trụ ở khắp pháp giới, bản thể của vạn pháp, là bất nhị (không phải hai). Bây giờ mình vọng động thấy có hai là kiến phần và tướng phần. Chia chân tâm bất nhị thành hai là tinh thần và vật chất. Nhận tinh thần là ta, còn bao nhiêu không phải ta thành có kiếp trược, có vọng cảnh. Trong tăm tối kết ám thành sắc là bắt đầu có đất, nước, gió, lửa. Có lửa là có ánh sáng, thế là có hai trần sáng và tối, động và tĩnh, hợp và li, nhạt và ngọt, xúc và không xúc, sanh và diệt là có các cảnh trần, vọng cảnh.
Tại sao gọi là kiếp? Kiếp là nói về thời gian, bởi vì có đất, nước, gió, lửa ở trong hư không biến đổi nên mới có ngày hôm qua khác, hôm nay khác, ngày mai khác, có quá khứ, hiện tại và tương lai để đánh dấu sự thay đổi ấy. Mới đặt ra ngày đêm, năm tháng, thời gian, thành từng phận đoạn thời điểm, chứ không còn xuyên suốt nữa nên mất đức chân thường mà bây giờ đưa vào cảnh vô thường.
Cảnh vô thường, hôm nay khác, hôm mai khác tức thành ra có thời gian. Chúng ta bắt đầu đo lường thời gian ngày đêm, nhiều năm thì gọi là kiếp và kiếp bị trược.
Kiếp trược hay sắc ấm, ở trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là kiên cố vọng tưởng.
2. Kiến trược: Do bắt đầu có hư không, có đất, nước, gió, lửa, có những trần sáng và tối, thành ra cảnh giới của cái thấy, do động và tĩnh thành ra cảnh giới của cái nghe, do hợp và ly thành ra cảnh giới của cái ngửi, do nhạt và vị thành ra cảnh giới của cái nếm, do xúc và không xúc thành ra cảnh giới của thân, do sanh và diệt thành ra cảnh giới của ý thức. Chúng ta có vọng cảnh gọi là sắc ấm. Nặng nề nhất là lãnh thọ đất, nước, gió, lửa là thân thể của mình (tranh luân hồi minh họa là căn nhà có sáu cửa) [4]. Vọng thân này chia làm sáu căn để nó biến hoá ra sáu trần. Thế cho nên kiến trược này là cái thấy sai lầm.
Cái thọ nặng nề và ngu si nhất là đất, nước, gió, lửa, làm chỗ nương tựa của mình, từ thân này có sáu căn, biến ra sáu căn cho là mình, rồi lại cho sáu trần là cảnh bên ngoài đến già chết từ sáng đến tối lúc nào cũng chấp thủ thân ta, cảnh người. Cho nên phần kiến trược này gọi là thọ ấm. Thọ tức là lãnh thọ cái gì ở bên ngoài mình. Chữ ấm nghĩa là nó ngăn che, không nhớ được đến tánh thật của mình.
Vơ đất, nước, gió, lửa kết làm da, thịt, xương, một nhúm này, dựng nó lên nhận làm thân thể mình và đối lập lại tất cả không phải mình, vì vậy kiến trược là thấy lầm.
Xây dựng ở trên mê lầm chấp ngã cho là thân ta, rồi từ thân này tạo ra sáu giác quan để biến hiện ra sáu cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp cho là cảnh bên ngoài. Suốt ngày theo duyên mà lãnh thọ cảnh bên ngoài gọi là thọ ấm, gọi là kiến trược. Đầu tiên thọ thân này, rồi bắt đầu thọ đủ thứ, thọ đồ ăn mặc, thọ bảo hiểm sức khoẻ, thọ bảo hiểm xe cộ, thọ tình cảm, thọ chỗ ở, thọ danh vị chức tước, thọ tịnh tài, thọ bịnh chết... Mỗi cuộc đời là một trường cảm thọ. Có thấy thọ là có cái thấy sai lầm này và từ nó mở ra tất cả luân hồi khổ não, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là hư minh vọng tưởng.
Minh là mình thấy rõ ràng có thân mình, rõ ràng có cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp. Thấy rõ ràng có mình, có đại chúng, chùa chiền, kinh sách, có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thấy rõ nhưng đều là hư vọng, nên gọi là hư minh vọng tưởng.
Lãnh thọ ăn cơm uống nước thở không khí để có thân này cho nên gọi là kiến trược là mê lầm, thấy sai. Mình đã thấy cái hư vọng đó chưa? Như trứng ung, trứng hư, đập ra là thối, không sanh con được. Thấy lãnh thọ cơm ăn uống nước, thở không khí để có thân này, lãnh thọ y áo, lãnh thọ giới phẩm, của cúng dường, thọ đồ ngon, đồ dở, lãnh thọ sự cung kính, cho đây là tôi, đều là trược, là nhơ, là vọng thân, cho nên gọi là kiến trược, là mê lầm, thấy sai.
3. Phiền não trược: tự thấy mình lấy cái thân đất, nước, gió, lửa này làm chỗ trụ, thấy mình ở trong thân đó, thân này là thể chất của mình, rồi nhìn ra sáu cảnh ngoài tính toán khôn dại, lợi hại tốt xấu thành ra phiền não trược, tức là vọng tâm, tưởng ấm. Phiền não trược là có vọng tâm vì nhận những tham, sân, si làm tâm tánh của mình.
Cả ngày trong thì chấp thân thể này là của mình, cho sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là bên ngoài, cho nên ra công tính toán, vì thế mới mở ra những độc tham, sân, si gọi là phiền não trược, nung nấu khiến cho chúng ta không được mát mẻ, nó não loạn làm cho chúng ta mất sự an ổn, mở ra ba độc tham, sân, si. Tánh tôi nóng lắm, tôi thích cái này, tôi ghét cái kia, ở đây gọi là phiền não trược. Phối về năm ấm thì gọi là tưởng ấm.
Vì vậy vô minh số một là vọng cảnh (kiếp trược),
Vô minh số hai là vọng thân (kiến trược),
Vô minh số ba là vọng tâm (phiền não trược).
Vô minh số hai là vọng thân (kiến trược),
Vô minh số ba là vọng tâm (phiền não trược).
Đức Phật thấy rõ ba vọng này, tức thấy rõ cuộc đời này là vọng, nên ngài và tăng đoàn không mất nhiều thời gian để lo cho cái mặc, cái ăn, cái răng, cái tóc của nó. Hình ảnh chư tăng ngày xưa, đi chân không, cạo tóc, sống đơn giản để có thời gian trở về với cái thật của mình.
Tưởng nhớ người thương liền khóc, tưởng trái me chua nước miếng chảy, tưởng đang lên dốc gập ghềnh thì xương sống ớn lạnh, tưởng chị A đang bêu rêu nói xấu mình thì mặt mày săn tím lại, tay chân run lẩy bẩy đầy bực tức... Các tưởng này dung thông toàn thân, nên phần phiền não trược này gọi là dung thông vọng tưởng.
4. Chúng sanh trược:
Chúng ta có đủ cả vọng cảnh, vọng thân và vọng tâm. Bởi vì có vọng tâm như vậy, cả ngày nhận những tham, sân, si là mình, mới mở ra những chuyện sát đạo dâm vọng, bao nhiêu những thứ nghiệp tạo, cho nên tạng thức cứ y theo nghiệp mà chuyển biến, thành ra có những quả báo. Cảm những quả báo thành có thân.
Bởi vì mình ở kiến trược nên đã có loại vô minh là cứ tối ngày lo ăn cơm món này, món kia, uống nước mua bỏ vào tủ lạnh để dành, thở không khí, vơ đất, nước, gió, lửa ở bên ngoài, nhận ánh sáng mặt trời bên ngoài để bào chế ra máu và nhận làm thân thể của mình. Đói quá sắp xỉu vì ngộp thiếu không khí, chế nước hay sữa tươi vào, người tỉnh và tay chân cử động được ngay.
Chỗ lầm tri kiến là cứ thấy đây là mình, phải bảo vệ cái mình. Phải ăn cơm uống nước, phải lo giữ gìn để xây dựng có một cái thân, nó có mắt, tai, mũi, lưỡi, để mà thọ lãnh những cảnh sáu trần, cho nên trong thân tâm của chúng ta cứ phải bằng bất cứ giá nào đan dệt có một cái thân bằng đất, nước, gió, lửa, cho nên thành có thân.
Đức Phật nói thật sâu sắc. Chúng ta nghe mà đau trong lòng.
Thế nhưng đất, nước, gió, lửa thì không ở mãi với mình, nó chuyển biến nên có sanh, già, bịnh, chết rồi tan đi. Cứ thế hết thân này lại tìm cầu một thân khác, cứ theo nghiệp báo. Nay có thân người, mai thân con bò, mốt thân con rắn rết, chuồn chuồn, bươm bướm, thằn lằn cứ biến hoá thay đổi.
Mình thì cứ vơ đất, nước, gió, lửa để thành thân, nhưng nghiệp báo cứ xoay vần, thân cứ sanh, già, bịnh, chết, rồi lại sang kiếp khác, lại vơ có thân khác, nghiệp báo lại xoay đem đi, cứ như vậy mà biến đổi mà hiện hình tướng con chó, nhận mình làm con chó, hiện hình tướng con người thì nhận mình làm con người, nhận là tôi, hiện ông trời thì nhận tôi là trời phạm vương, hiện con chó, con mèo thì nhận tôi là con chó con mèo...
Cứ vơ đất, nước, gió, lửa làm thân, rồi vơ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để tính toán nhận cái đó làm tâm. Do những thứ vơ vào, những thứ hợp lại mà có thân, có tâm nhận làm mình là chúng sanh trược.
Như thế lớp mê số bốn là nhận báo chướng là mình. Nghiệp báo hiện báo chướng lên, nhất định vơ nhận làm mình, từng thân phận đoạn một, đuôi con quỷ vô thường, từng đoạn gọi là phần đoạn sanh tử, lớp mê muội số bốn này là chúng sanh trược.
Vì vơ lấy đất, nước, gió, lửa, vơ lấy bốn thứ nhận làm mình nên gọi là chúng sanh trược. Thế là ‘hành ấm’ cứ biến chuyển đổi dời, thay đổi thức trí bình thường khó thấy nên gọi là u uẩn vọng tưởng.
Do vậy, mình ra sức bảo vệ thân, nuôi dưỡng thân cho nó sống lâu. Chỗ thấy, chỗ biết của chúng ta là phải bảo vệ nó, cho nó ăn, cho nó mặc áo ấm, phải tận tình lo để kéo thân được sống lâu dài.
Thế nào là tri kiến muốn lưu ở thế gian nhưng nghiệp báo xoay vần dời đổi đi cõi khác? Hiện tại thân bất tịnh là do nghiệp ở cõi ta bà, do dâm dục nên thành cái thân nhơ bẩn. Thân chó mèo, chuột rắn đều là nhơ bẩn. Con chó con xinh xinh chúng ta vuốt ve, chứ sau đám lông trăng trắng, nâu nâu là bao thứ nhơ nhớp hôi hám, bao con bọ chét cắn thân. Bây giờ chúng ta tập niệm Phật, giữ ba nghiệp trong sạch thành ra nghiệp chúng ta trở thành thanh tịnh. Khi thân của tội báo nó già, nó bịnh và nó tan đi thì thân thanh tịnh bên cõi Cực lạc lại xuất hiện.
Nghiệp báo xoay vần dời đổi, cứ có thân nào thì nhận thân ấy làm mình. Có thân người, thì vơ đất, nước, gió, lửa này làm tôi, làm mình, thế gọi là một chúng sanh. Chúng là do một số nhiều, sanh là thành hình. Trước kia nếu làm con bò, con mèo, con chó cũng vơ đất, nước, gió, lửa trong hình tượng con bò, mèo, chó nhận làm mình, nhận mình là chúng sanh. Nếu quán chiếu giác tỉnh, không có vơ đất, nước, gió, lửa nhận làm mình nữa thì khi ấy mới hết thân chúng sanh. Chúng mình cứ thay đổi hết thân này đến thân khác gọi là hành ấm. Biến đổi nghiệp báo, hành ấm chuyển, hiện hết thân này lại làm thân khác, nên hành ấm này gọi là u uẩn vọng tưởng. U uẩn khó biết, chúng ta không hề biết được sự vận hành của nó.
5 Mạng trược: khi đã nhận thân chúng sanh làm mình. Hễ thân còn thở, ăn, nói, cười, sinh hoạt, đi tới, đi lui được thì gọi là mình sống. Hễ thân không sinh hoạt nữa, sáu căn tan rã, sáu thức không sinh hoạt thì gọi là mình chết, hết thọ mạng. Nhận thọ mạng của thân gà khoảng sáu tháng, thọ mạng của heo khoảng ba năm, của chó khoảng 10 năm, của người khoảng 80 năm... Thành ra, chúng ta nhận cái thọ mạng, sinh hoạt của thân tạm bợ, thân đất, nước, gió, lửa, nhận đó làm thọ mạng của mình, cho nên gọi là mệnh trược.
Mệnh trược này thuộc về tạng thức rất vi tế, khó hiểu, khó biết nên gọi là vi tế tinh tưởng.
Vì cứ khư khư nắm lấy cái sinh diệt, từng mạng sống phận đoạn, non yểu làm mạng sống của mình, nên chúng ta quên mất tánh không sanh, không diệt, tánh vô lượng thọ của mình mà mình đang sống với nó lại quên. Tánh vô lượng thọ này không bận lòng gì đến cái thân bằng đất, nước, gió, lửa này cả. Tánh bản lai vô lượng thọ này có từ lâu như hư không, cho nên phải học kinh Thủ Lăng Nghiêm để nhận mình là cái gì, mình thật vẫn có từ bao giờ, vẫn ở khắp pháp giới, không bận gì đến thân đất, nước, gió, lửa này cả. Thân bằng đất này gom lại rồi tan đi, chứ tánh Phật của mình vẫn thường trụ bất động.
Tánh vô lượng thọ này bất động, độc lập không quan hệ gì đến cảnh bên ngoài cả. Có âm thanh, có hình sắc thì nó nghe, nó thấy. Không có âm thanh, không có hình sắc thì nó biết là không có âm thanh, không có hình sắc. Tánh Phật vẫn bất động, độc lập, còn những âm thanh, sắc tướng, thơm thối, ngọt chua, nóng lạnh hiện lên rồi lại tự tan đi, cho nên nó không quan hệ gì đến tánh Phật của mình cả. Cho đến cả vọng tâm yêu ghét, mừng giận thì đấy chỉ là thói quen, là vọng tập, cứ nổi lên rồi lại tan đi, chứ tánh Phật thấy yêu khởi lên, rồi ghét khởi lên, nó biết nó mặc, thì những cái yêu ghét đó tự tan đi, nó vẫn độc lập tự tại.
Trược là không đúng sự thật. Chính mình là vô lượng thọ, còn đây là thọ mạng của từng phận đoạn thân bằng đất, nước, gió, lửa, chứ không phải là thật, cho nên gọi là trược. Như thế, chúng ta mất đức vô lượng thọ, vô lượng quang mà cứ nhận từng mẫu, từng phần đoạn sinh hoạt làm mạng sống của mình.
NGHĨA 2: THẪM TƯỜNG CĂN BẢN PHIỀN NÃO
Nghĩa thứ hai là các thầy quyết muốn phát tâm Bồ đề, nơi thừa Bồ Tát, sinh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi, thì nên xét rõ cỗi gốc phiền não, những cái vô minh phát nghiệp và nhuận sinh vô thỉ đó, là ai làm, ai chịu?
A Nan, thầy tu đạo Bồ đề, nếu không suy xét cỗi gốc phiền não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, nó điên đảo ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp được nó và chứng được quả vị Như Lai.
A Nan, thầy hãy xem người thế gian cởi nút, hễ không thấy chỗ thắt nút, thì không biết cởi, chứ không hề nghe hư không bị phá tan; vì sao? Vì hư không không có hình tướng, không thắt, không cởi vậy. Thì như thầy hiện nay, sáu thứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà; do đó, từ vô thỉ, thế giới chúng sinh sinh ra ràng buộc, không thể vượt khỏi thế gian sự vật.[5]
Thế nào là thẫm tường xét cho kỹ căn bản phiền não tức căn bản sanh tử?
Phải xem xét chúng ta điên đảo ở chỗ nào? Nếu chúng ta không biết thắt nút ở chỗ nào thì làm sao mà cởi. Nếu không biết chỗ điên đảo thì làm sao mà dẹp được giặc? Biết giặc ở chỗ nào thì chúng ta mới dẹp được nó. Có dẹp được giặc thì mới an hưởng thái bình. Thế cho nên phải xem xét chúng ta điên đảo ở chỗ nào và biết mình đã thắt nút ở chỗ nào thì mới có thể cởi được.
Như người làm vườn trồng hoa thược dược, phải nhổ hết cỏ. Nếu để cỏ mọc um tùm thì gốc hoa của chúng ta không phát triển được. Cũng thế, phải biết rõ ràng những phiền não để nhổ. Chúng ta có năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là ngũ trược, năm thứ vọng tưởng, năm thứ vô minh. Năm thứ này đừng nhận làm mình là xong. Biết được căn bản sanh tử, biết năm ấm, biết nó là hư vọng, mặc cho nó tan đi, thế là thẫm tường phiền não. Rất đơn giản.
Cách nhổ cỏ phiền não là nhổ đào cả gốc quăng đi, nếu chỉ cắt trên ngọn còn gốc thì đủ duyên cỏ lại mọc nữa, nên phải nhổ tận gốc. Nhổ tận gốc nghĩa là hễ còn nhận sắc ấm là thân tôi thì nó dựng lên, còn biết là đất, nước, gió, lửa thì mặc nó, nó còn hay mất không bận gì tới mình. Ai khen cũng mặc, ai chê cũng mặc, biết mai nó sẽ tan đi, đâu có gì là thật. Mỗi khi nhìn để ý ngay, an định cái tâm lại, độc lập, còn những bóng ảnh là hư vọng thì nó tan. Thế là phá sắc ấm.
Biết nó huyễn thì chúng ta cứ bình tĩnh, độc lập, an định, đừng bận lòng gì đến cảnh bên ngoài. Biết mình độc lập thì còn có những khổ, vui hiện lên nữa không, thế thì làm gì có thọ. Thế là phá thọ ấm. Biết thọ là không thì đừng vơ vào. Một khi không có khổ, vui thì tưởng ghét, mừng, giận thành không cả. Thế là pháp tưởng ấm. Một khi thấy được sắc thọ tưởng là huyễn, còn cái hành nó đang chuyển động, mình cũng biết cái chuyển động này là cái mê, bản chất mình là bất động, thế là phá hành ấm.
Biết nó huyễn thì chúng ta cứ bình tĩnh, độc lập, an định, đừng bận lòng gì đến cảnh bên ngoài. Biết mình độc lập thì còn có những khổ, vui hiện lên nữa không, thế thì làm gì có thọ. Thế là phá thọ ấm. Biết thọ là không thì đừng vơ vào. Một khi không có khổ, vui thì tưởng ghét, mừng, giận thành không cả. Thế là pháp tưởng ấm. Một khi thấy được sắc thọ tưởng là huyễn, còn cái hành nó đang chuyển động, mình cũng biết cái chuyển động này là cái mê, bản chất mình là bất động, thế là phá hành ấm.
Nếu chúng ta không bị sắc thọ tưởng hành chi phối thì làm gì có cái thức, thế là phá thức ấm. Chúng ta cứ việc độc lập, an ổn thôi.
Không vơ các cảnh bên ngoài vào để khổ, vui yêu ghét, có trí tuệ như thế tức mình biết cái điên đảo ở chỗ nào, đó gọi là thẫm tường. Chúng ta hàng phục cái điên đảo thì mình được tự tại, không bị những cái tưởng nó chi phối nữa. Đó là biết điên đảo ở chỗ nào. Văn kinh nói: nếu không biết thắt nút ở chỗ nào thì làm sao mà cởi.
Muốn biết thắt ở đâu, chính là ở sáu căn của mình. Mỗi khi ngủ dậy mắt mình mở, sáu căn mở toang, chúng ta thấy cảnh sáu trần bên ngoài, tâm liền phân biệt tốt xấu. Thế là tâm yêu ghét khởi lên, thế là nó thắt nút. Thấy chị A đó dở ẹt mà ra vẻ ta đây, phách lối, cảm thấy ghét quá, khinh quá, thế là cột vào. Mình biết nó huyễn, mình đừng thắt thì nó cởi ra. Vậy biết ngay nút mình thắt ở sáu căn cho nên cứ hộ sáu căn.
Tâm mình có khởi lên những khổ, vui, sầu, bi, khổ, ưu, não, mình biết là hư vọng, mình tỉnh ra thì khổ, vui tan đi, vì chỉ có vọng tưởng, vọng tập chứ không có sự thật.
May cho mình những phiền não vô minh, những khổ nạn này toàn là cái không có, là cái hư vọng chỉ cần tỉnh ra thôi, đừng vơ nó về mình, buông nó ra, còn chính mình là căn bản bồ đề, là vô lượng quang, vô lượng thọ. Cứ việc trở về mình là thường lạc ngã tịnh, là an vui, là hạnh phúc. Thế nên học Phật không việc gì khác là buông ra, bởi vì bản chất của mình là Đức Phật rồi, bây giờ chỉ có một việc là buông ra. Thấy phiền nhọc, thấy khó chịu thì xin chỉ một việc làm ơn buông ra, đừng nói tôi phiền, tôi nhọc.
Thẫm tường là mình đang xét năm trược, năm phiền não, năm lớp vô minh. Thẫm tường cho kỹ đừng nhận nó làm mình. Chúng ta cứ suốt ngày vơ nhận làm mình nên đi mãi trên đường mê.
Phần này Đức Phật khuyên chúng ta trước hết lo nhân tu cho đúng. Hãy dùng đúng nhân tu là chơn tâm bản tánh thì sẽ thành Phật, còn như nếu sống với hư vọng thì dĩ nhiên kết quả hư vọng. Đây là rốt ráo lập thật giáo, là giáo lý chân thật của Phật, là dạy mình nhận lấy chân tâm.
Đến đây xem như Đức Phật đã giảng xong phần Sa-ma-tha rồi. Sa-ma-tha nêu ra hai nghĩa quyết định là nhắc lại nhân quả tương ưng, tức là dặn chúng ta phải nhận ra căn bản bồ đề mà thẫm trừ phiền não, tức là dạy mình nhận và loại ra căn bản sanh tử.
Phần kế tiếp là ngài khẳng định lại căn bản bồ đề hay căn bản sanh tử là ở sáu căn.
Tri Kiến Lập Tri và Tri Kiến Vô Kiến
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót A Nan và hàng hữu học trong Hội, lại cũng vì tất cả chúng sinh đời vị lai tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhãn tương lai; Ngài dùng tay sáng ngời xoa đỉnh đầu A Nan. Liền khi ấy, trong tất cả thế giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung động; các đức Như Lai, số như vi trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào quang báu từ nơi đỉnh đầu phát ra; hào quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ Đà, soi nơi đỉnh đầu của đức Như Lai; tất cả đại chúng đều được cái chưa từng có.
Khi bấy giờ, A Nan và cả đại chúng đều nghe các đức Như Lai mười phương, số như vi trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo A Nan rằng: “Hay thay cho A Nan! Thầy muốn biết cái câu sinh vô minh là cái đầu nút, khiến thầy phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của thầy, chứ không phải vật gì khác; thầy lại muốn biết tính vô thượng Bồ đề, khiến thầy chóng chứng đạo quả an vui, giải thoát, vẳng lặng, diệu thường, thì cũng chính là sáu căn của thầy, chứ không phải vật gì khác. [6]
Xưa nay chúng ta cứ cho Đức Phật là một cái gì cao xa lắm. Nếu Đức Phật ở trên cao chín tầng mây cho mình nương tựa, khẩn cầu, núp bóng thì chúng ta dễ tin; còn bây giờ Đức Phật ở ngay trong tai mắt, nơi sáu căn của mình là cái hết sức khó tin, mà xưa nay Đức Phật thường nói thân này, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân này là gốc luân hồi, là bất tịnh, dơ dáy và bịnh hoạn.
Chúng ta nhớ phần mở đầu kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôn giả A-nan khóc, kính xin Đức Phật chỉ cho pháp Ta-ma-đề để thoát luân hồi sanh tử. Đức Phật hỏi: vậy chứ cái tâm khát ngưỡng 32 tướng tốt của Phật và tâm yêu thích nàng Ma-đăng-già, tâm đó ở đâu? Tôn giả nói ở trong thân con. Phật quở: không phải, đó chỉ là vọng tâm. Chính vọng tâm này là giặc và con mắt thấy tức thân căn đó làm mai mối, đều là luân hồi cả.
Như vậy, chính Đức Phật đã minh bạch chính xác chỉ nó là đường luân hồi rồi, bây giờ chỗ giặc và mai mối ấy, Đức Phật lại nói nó là đường giải thoát, chính chỗ ấy là thành Phật. Thật là rất khó hiểu và khó tin.
Lời của Đức Phật tuyên bố như sau:
Tri kiến lập tri tức vô minh bản.
Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn.
Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn.
A-nan, thầy muốn biết cái câu sanh vô minh (căn bản vô minh) là gốc thắt kết khiến thầy lưu chuyển trong vòng sanh tử ấy, chính là lục căn của thầy chứ không phải vật khác. Thầy lại muốn biết đạo vô thượng bồ đề khiến ngươi mau chứng quả tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ ấy, cũng chính là lục căn của thầy chứ không phải vật khác.
Tri kiến lập tri tức vô minh bản: Căn bản sanh tử là do chỗ tri kiến lập tri. Tri là cái biết của thức thứ sáu, ý thức. Kiến là cái biết của thức thứ nhất, nhãn thức, tức là đại diện nói luôn cả sáu cái: thấy, nghe, ngửi, nếm, hay và biết, gọi là tri kiến.
Tri kiến lập tri là y theo sáu cái thấy, nghe, ngửi ấy lập hiện lên năm trần: sắc thanh hương vị xúc mà lập tri, tức là mình nắm lấy, giữ chỗ biết của mình gọi là lập tri và nắm lấy cho là thật, đấy là gốc vô minh.
Như chúng ta bây giờ đang thấy, mắt nhìn thấy bình bông, cho là thật. Thấy có đại chúng đang ngồi đây mình cho là thật, cho là mình thấy thật thì đấy là gốc vô minh.
Bởi lẽ hồi nãy ở phần ngũ trược, Đức Phật dạy rồi:
Vô minh thứ nhất: cho cảnh là thật (kiếp trược).
Vô minh thứ hai: cho thân là thật (kiến trược).
Vô minh thứ ba: cho tâm là thật (phiền não trược).
Vô minh thứ hai: cho thân là thật (kiến trược).
Vô minh thứ ba: cho tâm là thật (phiền não trược).
Phải quán chiếu cái thấy đây là do có con mắt mà con mắt này là nghiệp báo của loài người, cho nên những hình ảnh thấy đây là nghiệp báo của loài người nó trình bày ra, tuần nghiệp hiện ra. Một khi đã gọi là nghiệp báo thì đâu có thật nữa mà chúng ta bị nghiệp báo đánh lừa, chúng ta lập tri cho là thật, quên là đang đeo con mắt, đeo kính nghiệp báo, quên đó là cái không có. Chúng ta đang mê muội bị nghiệp báo đánh lừa nên tranh giành hơn thua cả ngày và cả đời. Đây là gốc vô minh.
Chúng ta quên chạy theo các nghiệp báo đen đúa đó nên là vô minh. Mỗi loài chó, mèo, trời, địa ngục đều thấy nghiệp báo của mình, đều là tướng nghiệp báo, không phải sự thật, mà mình nắm lấy chỗ biết của mình cho là thật. Hễ lập tri cho là thật thì đấy là bà già mù vô minh đi trong rừng xương sọ [7].
Vậy phải thấy như thế nào mới đúng? quyền giáo trong 12 năm đầu Đức Phật thuyết hệ A-hàm là ngài dạy quán các tướng nghiệp báo của các loài là huyễn. Sau khi biết huyễn thì buông xả thân, tâm, cảnh và nhận tánh thể nơi thấy nghe hay biết, thường trụ nơi sáu căn. Đó là ý nghĩa của các kinh phát triển (Đại thừa) sau này.
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn: Thế nào là vô kiến? Tuệ tri vi mật quán chiếu thân tâm cảnh này là huyễn. Thấy như không thấy, không để nó chi phối, che lấp và đánh lừa, biết đây là bóng ảnh giả hiện không thật, bình tĩnh an định tinh thần, không để cảnh ngoài đánh lừa khiến mất quyền tự chủ, nhận giặc làm con, làm mai mối, không bị sai sử, không bị oan uổng chịu khổ, thế là chúng ta ở niết bàn.
Tuy sống với loài người, đeo sáu căn của loài người nhưng chúng ta vẫn ở niết bàn, bởi vì mình biết cái đó là huyễn. Thấy như vậy là sáng suốt.
Bây giờ chúng ta học kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật xác nhận: con đường giải thoát và con đường đọa lạc là ở ngay sáu căn của mình. Những cái hiện lên, nhớ rằng đây là kính nghiệp của loài người, không phải mình thì không lập tri. Đại chúng đây đều là tướng nghiệp báo hiện ra, còn sự thật: chính mình và đại chúng đều là tánh Phật.
Nếu trong đại chúng đây có người Phật tử hiện tướng sân si, niềm nở, hoặc khiêu khích, khinh khi mình thì nên biết những tướng này chỉ là nhân duyên giả hiện, mình biết như vậy, còn sự thật đại chúng đây đều là ông Phật cả. Tri kiến vô kiến, là đừng thọ, thấy cũng như không thấy, đừng bận lòng nghe người ta rì rào phiền quá, buồn quá hoặc rối rít lên, tít mù các chuyện, đừng bận lòng chỉ một việc vô kiến là đừng chấp là thật.
Tri kiến Phật tức tánh thấy nghe hay biết của chúng ta, chính là tánh Phật. Nếu chúng ta sống với tánh thấy, nghe, hay, biết, thì chính là tánh Phật. Nếu chúng ta sống với nhản thức thì đó là chúng ta đi về tri kiến chúng sanh. Tri kiến Phật ở căn tánh. Đức Phật đã đích xác chỉ rõ và chính chúng mình cũng đã nhận được, học được và hiểu được. Tri kiến Phật tức là tánh thấy, nghe, hay, biết của chúng ta, chính là tánh Phật. Nếu chúng ta sống với tánh thấy, nghe thì chúng ta là Phật. Còn nếu chúng ta sống với nhản thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức thì đó là chúng sanh đi về tri kiến chúng sanh.
Đức Phật đã tu chứng đến cứu cánh, cho nên Đức Phật mới chỉ cho mình chỗ tri kiến này tức là khai hiển tới cứu cánh, “Dần dà khai hiển tới cứu cánh gọi là Như lai tạng”. Đức Phật đã chỉ ra kiến tinh ở nơi sáu căn, chẳng những thế mà cả năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới, 7 đại tất cả đều là Như lai tạng diệu chân như tánh.
Tánh Phật không chỉ đang hiển lộ công dụng ở sáu căn mà thể chất của tánh Phật là bản thể của năm ấm, sáu nhập 12 xứ, 18 giới, 7 đại, ngay cả từng tí từng, tí một, từng rừng cây, ngọn suối, cọng cỏ, nhánh hoa, cái ly, cái tách, chỗ nào có đất, nước, gió, lửa, những chỗ ấy đều là Như lai tạng. Đức Phật cặn kẽ khai hiển cho chúng ta thấy đều là tánh Phật cả.
Đức Phật nói đi nói lại nghĩa này sợ ta vẫn chưa tin chưa nhận, ngài lại thỉnh vi trần Phật ở 10 phương xác nhận điều này. Liền khi ấy trong tất cả thế giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung động, các đức Như lai, số như vi trần, trong các cõi ấy, mỗi ngài đều có hào quang báu từ nơi đỉnh đầu phát ra. Hào quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ-đà, soi nơi đỉnh đầu của Đức Như lai. Tất cả đại chúng đều được cái chưa từng có.
Khi bấy giờ, A-nan và cả đại chúng đều nghe các đức Như lai 10 phương, số như vi trần, tuy khác miệng nhưng đồng một lời bảo A-nan rằng: “Hay thay A-nan! Thầy muốn biết câu sanh vô minh là cái đầu nút khiến thầy phải luân hồi sanh tử thì nó cũng chính là sáu căn của thầy, chứ không phải vật gì khác. Thầy lại muốn biết tính vô thượng bồ đề, khiến thầy chóng chứng đạo quả an vui, giải thoát, vắng lặng diệu thường thì cũng chính là sáu căn của thầy, chứ không phải vật gì khác”[8].
Vi trần Phật từ cõi mình chứ không phải là ông Phật giả vờ, không phải là ông hoá Phật hay tiếng nói vu vơ văng vẳng ở hư không mà là chư Phật đích thật, từ cõi của mình phóng hào quang tới rồi nói trong hào quang. Các ngài khác miệng đồng lời đích xác tuyên bố việc này: Sanh tử và Niết bàn là ở ngay sáu căn của mình.
Các ngài phóng hào quang tới cho cả hội chúng mắt thấy, tai nghe, đích xác tuyên bố việc khó hiểu, khó tin này để không còn phải nghi ngờ gì cả.
Chưa hết, đợi chư Phật nói xong, Đức Phật Thích Ca lại nói một bài kệ thật dài để giải nghĩa, thế nào là sanh tử và niết bàn là ở sáu căn. Chúng ta sống là sáu căn hoạt động, khi sáu căn không hoạt động nữa thì gọi là chết, cả đời chúng ta là ở sáu căn. Mỗi cái tâm khởi niệm đừng có đi về đường luân hồi, chỉ an định chứ không vất vả gì cả, không phải làm gì cho sâu sắc chỉ nhận tánh thể của mình rồi an định vào tánh Phật.
Kinh Lăng Nghiêm đã đích xác, kỹ càng, cẩn thận và minh bạch tuyên bố về việc này. Tại sao lại kỹ càng như thế? Bởi vì đây là việc hết sức khó tin. Xưa nay chúng ta cứ cho Đức Phật là một cái gì cao xa lắm. Nếu Đức Phật ở chín tầng mây cao thì mình dễ tin, còn bây giờ Đức Phật ở ngay trong tai mắt của mình. Chính Đức Phật ở tại tai mắt mình, đó là cái hết sức khó tin mà xưa nay Đức Phật nói thân này, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân này là gốc luân hồi sanh tử.
1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 344
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 345-7.
3 Tám khổ: sanh, già, bịnh, chết, xa người mình thương yêu, gặp người mình oán ghét, cầu không được như ý và ngũ ấm xí thạnh.
4 TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi, tr. 90-91.
5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 353-4.
6 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 385-6.
7 Vòng Luân Hồi, tr. 77-8.
8 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 385-6.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 345-7.
3 Tám khổ: sanh, già, bịnh, chết, xa người mình thương yêu, gặp người mình oán ghét, cầu không được như ý và ngũ ấm xí thạnh.
4 TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi, tr. 90-91.
5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 353-4.
6 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 385-6.
7 Vòng Luân Hồi, tr. 77-8.
8 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 385-6.
CHƯƠNG VII: GIỚI THỦ LĂNG NGHIÊM
A Nan sửa áo chỉnh tề, ở trong đại chúng, chắp tay đảnh lễ; tâm tính trọn sáng, vừa mừng vừa tủi; vì muốn lợi ích cho các chúng sinh vị lai, cúi đầu bạch Phật: “Thưa đức Thế Tôn đại bi, con nay đã ngộ được pháp môn thành Phật, tu hành trong đó, được không nghi hoặc. Con thường nghe đức Như Lai dạy như thế này: Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là chỗ phát tâm của các vị Bồ Tát; tự mình giác ngộ viên mãn, có thể giác ngộ kẻ khác, đó là sự ứng thế của các đức Như Lai. Con tuy chưa được độ, song nguyện độ tất cả chúng sinh trong đời mạt pháp. Bạch Thế Tôn, các chúng sinh đó cách Phật ngày càng xa, những tà sư thuyết pháp, số như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp tâm vào Tam ma đề, thì nên khiến họ dựng lập đạo trường thế nào để rời các ma sự, được không thối thất nơi tâm Bồ đề”.
Khi bấy giờ, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, khen ngợi A Nan: “Hay lắm, hay lắm, như chỗ thầy hỏi về dựng lập đạo trường, cứu giúp chúng sinh chìm đắm trong đời mạt pháp, thầy hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì thầy mà nói”. A Nan và cả đại chúng kính vâng lời dạy của Phật.
Phật bảo A Nan : “Thầy thường nghe tôi, trong Tỳ nại gia, tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là thu nhiếp cái tâm là giới, nhân giới mà sinh định, nhân định mà phát tuệ, thế gọi là 3 pháp Vô lậu học”.
CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐỌAN LÒNG DÂM
A Nan, thế nào thu nhiếp cái tâm thì gọi là giới?
Nếu chúng sinh lục đạo các thế giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo dòng sinh tử tiếp tục. Thầy tu phép tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần lao được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma đạo, hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ; các bọn ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri thức, khiến cho các chúng sinh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ đề. Thầy dạy người đời tu pháp Tam ma đề, trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai Phật Thế Tôn. Vậy nên A Nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy. Thầy đem thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng Niết Bàn Như Lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ đề của Phật.
Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba Tuần”[1] .
Thu nhiếp cái tâm gọi là giới là thế nào?
Trong kinh Duy-ma-cật có kể câu chuyện rằng: Khi các chư thiên rải hoa cúng dường tôn giả Xá-lợi-phất và Duy-ma-cật, tôn giả Xá lợi phất liền lấy tay phủi lia lịa vì biết rằng trong giới luật, việc trang điểm hoa hương phấn sáp là điều ngăn cấm, nhưng kỳ lạ thay phủi chừng nào hoa dính chừng nấy. Trong khi tôn giả Duy ma cật, ngồi lặng yên, thế mà hoa tự rụng xuống. Bởi lẽ kinh Duy ma cũng là một bộ kinh của hệ Phật giáo Phát triển nghiêng về phần tâm hơn hình tướng nên nếu có tâm dính hoa, thích hoa thì mới có hành động phủi lia lịa, trong khi các bồ tát tự tại đối với sáu trần, biết hoa là huyễn, không có tâm vướng mắc vào hoa thì hoa tự rơi rụng không cần dụng công.
Ở đây cũng thế, nhiếp tâm gọi là giới? Là tâm giác tỉnh sáu căn huyễn hoá, sáu trần ảo ảnh và sáu thức mê lầm thì tự nhiên sẽ nhiếp tâm không buông lung, không đắm nhiễm, sáng suốt thì trạng thái nhiếp tâm giác tỉnh đó gọi là giới của kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Trong giới thứ nhất này, Đức Phật dạy nếu chúng ta tu pháp thiền định tam-ma-đề mà còn dâm dục ái ân thì sẽ không ra khỏi sự chi phối của luật sanh tử được, dầu có nhiều trí thiền định cũng làm ma vương, ma dân hay ma nữ.
Đây là nhân và quả của cõi trời Lục dục thiên. Nhân để sanh về cõi trời là do hiện đời vừa có tu thiền định, thập thiện, bố thí và vừa vẫn còn nghiệp ái ân giữa nam và nữ.
Chúng ta đọc qua phần Đức Phật dạy về nhân và quả của Dục Giới Thiên (sáu cõi trời Dục giới) [2] như sau:
1. Tứ Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng nhưng không tà hạnh, tâm sáng suốt, mạng chung sống gần mặt trời và mặt trăng.
2. Đao Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và thường tịnh cư, tâm sáng suốt, mạng chung vượt lên mặt trời và mặt trăng, ở trên chóp nhân gian.
3. Tu Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống động ít, tĩnh nhiều, tâm sáng suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh sáng mặt trời và mặt trăng không soi đến được.
4. Đâu suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc vẫn bị chi phối, mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những hoại kiếp và tam tai của nhân thiên cõi dưới không đến được.
5. Lạc biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải đáp ứng nhưng thấy vô vị như ăn sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến hóa.
6. Tha hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ. Mạng chung vượt lên những cảnh biến hoá và không biến hoá.
Sáu cõi trời như thế hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở xuống gọi là Dục giới.
Từ cõi Lục Dục thiên này trở xuống cùng với loài người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục là ở trong dục giới, tức là còn lòng tham muốn dục nhiễm rất nhiều.
Trong Nhị khoá hiệp giải và Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: Tuổi thọ của các cõi trời bằng mấy trăm ngàn tỷ năm con người do nhờ chư thiên có phước báu và định lực, nhưng dù sống mấy ngàn năm đi nữa rồi cũng có ngày hết hạn và rơi đọa xuống.
Chúng ta thấy cõi trời thứ sáu là cõi Tha hoá tự tại “không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ” thì vị này rõ ràng có giảm lòng ái nhiễm và chán ngũ dục: tài, sắc, lợi, thực và thùy (tiền, sắc đẹp, công danh, ăn uống và ngủ nghỉ) của thế gian. Đây là chánh nhân, là trạng thái để vị này sắp sửa vượt qua cõi dục (nếu vị ấy muốn) tiến lên cõi trời sắc giới và vô sắc giới vì hai cõi này thoát ly ngũ dục nhưng còn lụy về sắc và định (định không phải là định Thủ Lăng Nghiêm tức cái định rốt ráo, bền chắc sẵn có của tâm tánh).
Nếu chúng ta tu thiền định mà còn lòng ái nhiễm dâm dục thì tùy mức định lực, ứng phần sở tri mà có cảnh giới khác nhau:
a. Hạng trên cao thì làm ma vương,
b. Hạng giữa thì làm ma dân,
c. Hạng dưới thì thành ma nữ.
b. Hạng giữa thì làm ma dân,
c. Hạng dưới thì thành ma nữ.
Các bọn ma này cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thánh đạo vô thượng. Sau khi Đức Như lai diệt độ rồi, trong đời mạt pháp giả làm thiện tri thức khiến cho các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất đường bồ đề.
Chúng ta thấy vì sao làm ma mà ma thấp nhất lại là ma nữ? mà ma vương thì cũng là nam? Bởi lẽ người nữ chúng ta cơ thể yếu đuối, kém phước tuệ, tinh thần yếu mềm, yếu lòng, không cương quyết, đức hạnh lại càng tệ, cũng có người nữ giỏi nhưng số lượng này rất hiếm hoi lắm.
Người nữ nặng nề về ngã ái, ngã kiến, ngã chấp gọi là si mê. Từ ngã ái, ngã kiến mà phơi tỏ ra các thứ ích kỷ, tật đố và ghen ghét. Người nữ khó lãnh đạo, nên ngay cả ma vương, chúa thống lãnh cũng là nam, bởi lẽ người nữ yếu mềm, ít có đủ sức quản lý và tâm hẹp hòi nên ít thống lãnh được.
Tuy tánh của nữ nhân là vậy, nhưng người nữ cũng có những sở trường khá hay mà người nam không có như tánh dịu hiền, chịu đựng, chịu khó, nhẫn nại, tỉ mỉ... Để thoát khỏi tánh nữ nhi phàm tình, dù lỡ mang thân nữ, chúng ta cũng nên tập vun bồi những đức tánh trượng phu, cao cả, hy sinh, không nói chuyện vặt, hướng về lý tưởng cao cả thì lúc đó ta là tánh nam trượng phu rồi, chứ còn thân xác nam hay nữ chuyện đó là xác thân đất, nước, gió, lửa không quan trọng. Tâm trượng phu là quan trọng.
Vì sao lòng dục lại được Đức Phật đưa lên làm giới đầu của giới Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni và tại giới Thủ Lăng Nghiêm đây cũng đưa lên đầu tiên?
- Nghiệp lực trói buộc có xác thân này là biểu lộ của gốc ngu si.
- Vì kiến trược cho là thân mình nên tối ngày cứ lo vơ ăn cơm uống nước, vơ đất, nước, gió, lửa bên ngoài, thở không khí, hút ánh sáng mặt trời tếch làm da thịt máu xương, lấy đó làm thân, đó là gốc vô minh.
- Cái vô minh nữa là một khi đã bị thân này đánh lừa nhận thân này làm mình, thì không có khởi tâm đi tìm xem chúng ta thật là gì nữa, cứ nhắm mắt đi theo những tri kiến của ông, bà, cha, mẹ ta đã đi. Chấp nhận có thân, lập gia đình rồi sanh nhai kiếm sống, rồi sanh, già, bịnh, chết, tiếp tục diễn tuồng cha theo ông, con theo cha tiếp tục xách cuốc đào hố, xuống lỗ vô thường.
- Chúng ta không biết mình là gì đến nỗi đi vơ đất nuớc gió lửa nhận làm thân thể của mình là cái ngu nặng nề, là cái gốc ngu si.
- Tham thân mình đã là ngu mà giờ lại thêm tham luyến thân người khác (hoặc đồng phái hoặc khác phái) để mà cưới nhau ràng buộc yêu thương thì cái mê này càng thậm tệ. Người này yêu cái tâm người kia, người kia thích cái sắc người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc.
Trong đoạn nghiệp quả tiếp tục, Đức Phật dạy: Tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế gian sinh nhau không ngớt, bọn này thì lấy dục tham làm gốc[3] .
Lấy dục tham làm gốc nghĩa là vị này nặng về lòng dục. “Ái bất nhiễm bất sanh ta-bà” nếu không có lòng ái nhiễm thì chúng ta không có sanh ở cõi này, nên chúng ta từ hạt giống bất tịnh, chủng tử bất tịnh này mà sanh ra.
Các tổ nói thêm rằng: Ở thế gian này chỉ có một lòng ham thích về tình dục, chứ nếu có hai thứ thì khắp dưới gầm trời không có ai tu hành được. Nếu vướng mắc vào cái ngu mê tham đắm này thì làm sao nói chuyện thành vô thượng bồ đề được?
Đây là cái khó số một mà khiến cho nhiều vị Phật tử thuần thành chưa dám xuất gia bước vào nhà xuất thế được hay nhiều vị xuất gia phải hoàn tục trong đau thương tiếc nuối.
Đức Phật dạy rất kỹ là không những cái thân làm việc ấy là lầm mê mà cấm tuyệt trong cái tâm có tơ tưởng đến. Vì hễ còn nhớ nghĩ đến việc ái ân thì chưa ra khỏi đường mê được như con tằm tự nhả tơ để kéo kén, rồi chính cái kén tự trói, tự ràng buộc mình vào ngục tù kén. Người đem cái tâm mà tơ tưởng những việc này như nấu cát mà mong thành cơm, dù có siêng năng tu hành bao nhiêu cũng vô ích như người nấu cát mà mong thành cơm thì chỉ được cát nóng. Dù là vất vả nhọc nhằn trăm ngàn vạn kiếp cũng chỉ có cát nóng mà thôi.
Nếu lấy cái ngu si này làm căn bản tu hành thì chỉ là gốc dâm, phải trôi lăn trong tam đồ chắc gì ra khỏi, còn đường nào để cầu bồ đề? được chứng quả bồ đề là chuyện không bao giờ có. Cái mê với tỉnh như sáng với tối, có bao giờ mà đồng một lúc mà có được. Thế cho nên Đức Phật ân cần, bất luận tu pháp môn nào dù tịnh hay dù thiền mà đã muốn tu hành giải thoát thì việc đầu tiên là giải thoát gốc vô minh này. Chẳng những đoạn dục, chẳng những tâm không tơ hào tơ tưởng đến mà ngay cả tính đoạn cũng không còn, thì mới trông mong chứng quả bồ đề. Ngay cả tính đoạn cũng không còn. Chúng ta nên nhớ như vậy. Rất khó. Vì rất khó nên người giải thoát cũng rất hiếm.
Đức Phật còn xác định một lần nữa như đinh đóng vào cột rất chắc chắn: Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật, không như lời nói đó là lời nói của ma Ba tuần.
Ma Ba tuần là ma ở trên cõi trời lục dục thích việc ái ân và hưởng thụ. Đây là tiêu chuẩn để hiện tại và vị lai tự phán xét lời dạy nào đó có đúng với Phật pháp không? Đức Phật đã bảo chúng ta phải dựa trên giới luật tinh khiết làm tiêu chuẩn.
CHỈ VỀ QUYẾT ĐỊNH ĐOẠN LÒNG SÁT
A Nan, lại các chúng sinh lục đạo trong các thế giới, nếu cái tâm không sát, thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Thầy tu phép tam muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng sát, thì không thể ra khỏi trần lao được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng sát, thì chắc phải lạc vào thần đạo; người bậc trên thì thành đại lực quỷ, người bậc giữa thì thành phi hành dạ xoa và các loại quỷ soái, người bậc dưới thì thành địa hành la sát, các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều quỷ thần này sôi nổi trong thế gian, tự nói rằng ăn thịt, được đạo Bồ đề. A Nan, tôi khiến hàng Tỷ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục, thịt kia đều do thần lực tôi hóa sinh ra, vốn không có mạng căn. Xứ Bà La Môn đất đai phần nhiều nóng ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ không sinh được; tôi dùng sức đại bi gia bị, nhân sức đại từ bi, giả gọi là thịt và các thầy cũng nhận được cái vị như thịt; làm sao, sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sinh, lại gọi là Phật tử! Các thầy nên biết những người ăn thịt đó, dầu cho tâm được khai ngộ, giống như Tam ma đề, đều là loài la sát, quả báo hết rồi, phải chìm đắm trong bể khổ, không phải đệ tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, làm sao, lại được ra khỏi ba cõi. Thầy dạy người đời tu phép Tam ma đề, thứ nữa, phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ hai của các đức Như Lai Phật Thế Tôn.
Vậy nên A Nan, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền định, thì cũng ví như có người tự bịt lỗ tai, cả tiếng kêu to mà trông mong người khác không nghe; bọn này gọi là muốn giấu thì càng lộ. Hàng Tỷ Khưu thanh tịnh và các vị Bồ Tát đi trong đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống nữa là lấy tay nhổ cỏ; làm sao đức Đại bi, lại lấy máu thịt của các chúng sinh, mà làm đồ ăn?
Nếu các hàng Tỷ Khưu không mặc những đồ tơ lụa, là lượt phương Đông và không dùng những giày dép, áo cừu, áo len hay các thứ sữa, phó mát, đề hồ, thì những Tỷ Khưu như thế, đối với thế gian, thật là giải thoát, trả hết nợ cũ xong, thì không vào trong ba cõi nữa, vì cớ sao ? Dùng những bộ phận thân thể chúng sinh, thì đều bị ảnh hưởng chúng sinh, cũng như con người ăn giống bách cốc trong đất, thì chân không rời khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sinh, đều không mặc, không ăn, thì những người như thế, tôi mới gọi thật là giải thoát. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba Tuần[4] .
Cũng giống ở trên, nếu tu thiền định mà lòng còn sát sanh, còn nặng về sát sanh thì rơi vào thần đạo và tùy mức định lực và phước báo làm ba quỷ thần:
a. Bậc trên thì thành đại lực quỷ,
b. Bậc giữa thì thành Phi hành dạ xoa và các loài quỷ soái,
c. Bậc dưới thì thành địa hành La sát.
b. Bậc giữa thì thành Phi hành dạ xoa và các loài quỷ soái,
c. Bậc dưới thì thành địa hành La sát.
Thế nào là nặng về lòng sát? Trong đoạn nghiệp quả tiếp tục Đức Phật dạy: Lòng tham lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hoá sanh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau, bọn này lấy sát tham làm gốc [5].
Vì tham thực, nên 12 loài chúng sanh ỷ mạnh hiếp yếu, dùng các loại phương tiện tinh vi để giết người hại vật hoặc vì khoái khẩu thích rượu thịt, hoặc vì thú tiêu khiển săn bắn câu cá hoặc vì tâm ác... mà giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa từng thôi nghỉ nên trải trăm ngàn đời thường ở trong đường sống chết để trả nợ máu thịt cho nhau.
Ngày xưa, có một thời tại Ấn độ bị hạn hán, cây cỏ không sinh sôi, nảy nở, nên Đức Phật tạm cho các tỳ kheo dùng ngũ tịnh nhục. Ngũ tịnh nhục là các thịt súc vật như cừu, heo, cá, gà, dê (non-vegetarian)... được dâng cúng thì các tỳ kheo được dùng với năm điều kiện là không thấy, nghe, nghi thí chủ giết vật vì đãi mình, không kêu họ giết súc vật cho mình ăn và cuối cùng là súc vật đó tự chết trước rồi. Đây là lời dạy phương tiện cho lúc đó, chứ nếu ngày nay rau, quả, trái, đậu xanh tốt, đầy đủ chất bổ dưỡng sao chúng ta không phát tâm dùng chay để trưởng dưỡng lòng đại bi?
Đức Phật dạy làm sao người ăn thịt chúng sanh lại gọi là Phật tử? Bọn này đầy dãy thế gian, họ nói vẫn ăn thịt mà vẫn chứng quả. Đấy là họ nói chứ không phải Đức Phật nói. Nên biết, nếu vị đó dù cho tâm có khai ngộ cũng sẽ rơi vào các loài quỷ thần chìm đắm, không thể giải thoát, thế nên phải đoạn lòng sát. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định thứ hai của các đức Thế tôn.
Như người bịt lỗ tai rồi hét lớn lên, mong người khác đừng nghe, thì làm sao họ không nghe âm thanh đó. Cũng thế, nếu không đoạn lòng sát mà tu thiền định cầu giải thoát thì không thể được, vì càng giấu, càng lộ bày. Trong các giới xuất thế, Đức Phật dạy các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni không được vô cớ dẫm cỏ, phải bảo vệ môi trường sinh vật, huống nữa là chúng ta lại lấy máu thịt chúng sanh mà ăn, cố ý ăn thì làm sao chúng ta trưởng dưỡng thánh thai của mình.
Giữ không ăn thịt chúng sanh vẫn chưa đủ, thêm vào đó, giới Lăng Nghiêm còn dạy rất kỹ và vi tế nữa.
Đức Phật còn dạy thêm rằng hễ còn dùng mặc đồ lông thú, giày dép, áo cừu, áo len hay các thứ sữa tức còn dùng những bộ phận thân thể chúng sanh thì còn mắc nợ phải trả nợ chúng sanh đó, còn dùng đến là còn nợ, cho nên giới luật ở Lăng Nghiêm cấm không nên uống sữa, không mặc dùng đồ lông thú, cũng giống như người còn dùng ngũ cốc trong đất thì chân không thoát, không rời khỏi mặt đất được. .
Những lời dạy này chúng ta chưa theo được. Chúng ta chưa giữ được vì phúc đức, trí tuệ của mình chưa đủ khả năng, chứ còn các vị thật tu có chết thì thôi chớ quyết không phạm giới. Thà chết chứ không uống nước có trùng, thà chết chứ quyết một lòng theo những lời Phật dạy... Các vị thánh đó không tiếc thân giả tạm mà giữ giới tinh nghiêm cho đến nơi đến chốn, đó là những vị trì giới bồ tát. Đây là giới bồ tát, còn chúng ta chỉ giữ giới Thanh văn thôi.
Nơi đây, Đức Phật khẳng định thật quả quyết rằng quyết phải khiến cho thân tâm, đối với thân thể hay bộ phận thân thể của chúng sanh đều không mặc, không ăn, thì những người như thế, tôi mới gọi thật là giải thoát. Nói như vậy mới là lời của Phật nói, còn không thì lời nói của ma Ba-tuần.
Như vậy, ý ở đây Đức Phật khuyên chúng ta ăn cái gì? Không ăn mặn nên ăn chay là một bước tiến khá rõ. Dùng chay rồi và cũng không nên dùng các thức trực tiếp hay gián tiếp từ các thú vật như bơ, sữa, áo lông cũng là một bước tiến. Rồi ngay cả nếu còn ăn dùng ngũ cốc thì còn làm chúng sanh quyến thuộc với ngũ cốc nên sẽ gặp ngũ cốc hoài và chân không thoát khỏi mặt đất..., vậy chúng ta nên dùng cái gì? thiền duyệt thực, tư thực và thức thực.
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày không ăn vì sự an lạc của tinh thần, đây là tư thực đã duy trì thân mạng. Các chư thiên ở cõi trời dục giới, sắc giới và vô sắc giới cũng lấy tư thực, sự khinh an của định để duy trì thọ mạng lâu dài.
Ngoài ra nên ăn cái gì? Thức thực.
Bốn thánh sáu phàm chung đủ thức thực này chỉ có khác là mê và ngộ.
Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn sẵn trong sáng gọi là Như lai tạng. Vì tánh Thủ Lăng Nghiêm duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu, phi có, phi không, phi trụ và phi chẳng trụ. Đây là cách ăn bằng cách vốn có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh trụ. Nếu chúng ta dùng được món ăn này tức thức chuyển thành giác thì chúng ta thoát kiếp thân ăn uống đoạn thực của chúng sanh loài người.
Đây là một tiến trình giải thoát tâm linh.
KHÔNG TRỘM CẮP
A Nan, lại như chúng sinh lục đạo trong thế giới, tâm không thâu đạo, thì không theo dòng sinh tử tiếp tục. Thầy tu phép tam muội, cốt ra khỏi trần lao, nếu lòng thâu đạo không trừ, thì không thể ra khỏi trần lao được; dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn được lòng thâu đạo, thì chắc phải lạc vào tà đạo, hạng trên thì thành tinh linh, hạng giữa thì thành yêu mị, hạng dưới thì thành người tà đạo bị các loài quỷ mị nhập vào; các bọn tà đạo kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều những hạng yêu mị tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén núp gian dối, tự xưng là thiện tri thức, mỗi người tự xưng đã được đạo pháp thượng nhân, lừa gạt kẻ không biết, dọa dẫm khiến cho mất lòng chính tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao tổn tan nát. Tôi dạy hàng Tỷ Khưu theo thứ lớp khất thực để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ đề. Các hàng Tỷ Khưu không tự nấu ăn, gửi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi, thị hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại nữa. Làm sao, bọn giặc mượn y phục đạo Phật, buôn bán Như Lai, gây các thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại còn chê bai các vị Tỷ Khưu đầy đủ giới luật xuất gia là đạo Tiểu thừa; do chúng làm cho vô lượng chúng sinh mắc phải nghi lầm, nên sẽ bị đọa vào ngục Vô Gián.
Sau khi tôi diệt độ rồi, nếu có Tỷ Khưu phát tâm quyết định tu phép Tam ma đề, biết ở trước hình tượng Như Lai, chính mình thắp một cây đèn, đốt một đốt ngón tay hay ở trên thân, đốt một mồi hương, tôi nói người ấy, túc trái vô thỉ, trong một thời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các lậu. Người ấy, tuy chưa hiểu rõ đạo vô thượng giác, nhưng đối với Phật pháp, tâm đã quyết định; nếu không làm được cái nhân nhỏ mọn xả thân ấy, thì dầu thành đạo vô vi, cũng phải lại sinh làm người, trả các nợ cũ, như quả báo mã mạch của tôi, thật không sai khác. Thầy dạy người đời tu phép Tam ma đề, sau nữa, phải đoạn lòng thâu đạo.
Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ ba của các đức Như Lai Phật Thế Tôn.
Vậy nên A Nan, nếu không đoạn lòng thâu đạo mà tu thiền định, thì cũng như người lấy nước rót vào chén thủng, mong cho đầy chén, dầu trải qua kiếp số như vi trần, rốt cuộc không thể đầy được. Nếu các hàng Tỷ Khưu, ngoài y bát ra, mảy may không tích trữ, xin ăn có dư, thì bố thí cho chúng sinh đói, nơi nhóm hội lớn, chắp tay vái chào đại chúng, có người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết định rời bỏ cả thân và tâm, thân thịt xương máu thành sở hữu chung của chúng sinh, không đem những lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình, khiến cho kẻ sơ học phải lầm lạc, thì Phật ấn chứng người ấy, thật được tam muội.
Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba Tuần[6].
Nếu buông xả nhân sanh tử, học đạo xuất thế để cầu giải thoát mà giờ lại còn vướng mắc cho đến nổi phải đi ăn trộm ăn cắp, như thế tâm vướng mắc quá nặng nề thì làm sao mà nói chuyện giải thoát được.
Trong đoạn nghiệp quả tiếp tục Đức Phật dạy: Lấy thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra cùng tột đời vị lai, bọn này lấy đạo tham làm gốc [7].
Súc vật muốn tránh khổ cầu an, muốn sống, không muốn chết mà chúng ta dùng phương chước để giết chúng, đoạt lấy sinh mạng chúng, đây là một dạng trộm ăn cắp sinh mạng trầm trọng liên kết với sát sanh. Ngoài ra, trộm còn dưới nhiều hình thức như ăn cắp tiền của, vật sở hữu hoặc lớn hoặc nhỏ của Tam bảo, của người khác. Người ta không cho thì mình không được lấy. Nếu tự do lấy dùng thì đều phạm tội ăn cắp.
Nếu có những người tu tập thiền định, được định lực hiện tiền, nhưng nếu không đoạn lòng thâu đạo thì sẽ lạc vào tà đạo. Tùy định lực và phước báo mà có ba bậc:
a. Hạng trên thì thành tinh linh,
b. Hạng giữa thì thành yêu mị,
c. Hạng dưới thì thành người tà đạo bị các loài quỉ mị nhập vào. .
b. Hạng giữa thì thành yêu mị,
c. Hạng dưới thì thành người tà đạo bị các loài quỉ mị nhập vào. .
Các loài tà này cũng có đồ chúng, tự xưng là thành đạo vô thượng.
Như vậy, ác độc, sát sanh, giết người, hại vật thì làm quỷ; mê muội tham ái, tham đủ thứ thì làm ma; còn ăn trộm thì thành tà đạo, tinh linh, yêu mị và quỉ mị. Ăn trộm tức là chúng ta vướng vào vật bên ngoài, tự ràng, tự buộc thì làm sao mà vào chánh định nên gọi là tà đạo.
Yêu mị: yêu là yêu tinh, ăn trộm, ăn cắp, gian dối, xảo trá; mị là quỷ mị thuộc quỷ thần nên cũng đều là đi về đường tà.
Đồng bóng cô cậu: có chánh thần, tà thần, nhưng vì những vị này nặng về nghiệp sát sanh nên thường đọa đường quỷ. Đồng bóng cô cậu nếu nhập vào người để quậy phá thì gọi là tà. Nếu nhập để mang lợi ích cho người thì gọi là chánh thần như Quan Công nhập vào người khác để trị bịnh, trừ những tà ma quỷ quái.
Đức Phật dạy các tỳ kheo nên đi khất thực, giữ mạng sống tạm bợ trong ba cõi, thị hiện chỉ một phen đi về, đi rồi không trở lại.
Các tỳ kheo đi khất thực để khỏi chứa giữ, để khỏi có lòng tham lam tích trữ. Thí chủ bỏ vào bình bát, cúng món gì thì dùng món ấy. Ăn chỉ cốt giữ cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi tức ăn để hộ trì tấm thân giả tạm này làm việc phụng sự đạo pháp chứ không phải vì khoái khẩu bổ dưỡng. Mỗi khi ăn, Đức Phật còn dạy phải nên tưởng năm phép quán:
1. Xét công nhiều ít, xét chỗ người đem đến
2. Xét đức hạnh mình tròn hay khuyết để ứng cúng
3. Ngăn ngừa tâm tham, sân, si là gốc
4. Món ăn chính là thuốc hay chữa bịnh hình khô sắc héo.
5. Vì thành đạo nghiệp mới thọ thức ăn này.
2. Xét đức hạnh mình tròn hay khuyết để ứng cúng
3. Ngăn ngừa tâm tham, sân, si là gốc
4. Món ăn chính là thuốc hay chữa bịnh hình khô sắc héo.
5. Vì thành đạo nghiệp mới thọ thức ăn này.
Khi xưa, tăng đoàn của đức Thế tôn chỉ đi khất thực, xin được gì thì dùng cái nấy, không dự trữ thức ăn, vì Đức Phật muốn tăng đoàn dành nhiều thời gian cho việc tu học.
Ở Ấn độ, việc khất thực là việc thường, nhưng khi đạo Phật truyền sang Trung quốc thì người dân rất khinh bỉ việc đi ăn xin. Nếu đi ăn xin thì cả nước xem thường. Hơn nữa hàng xuất sĩ được mệnh danh là chúng trung tôn, thiên nhân sư, thầy của trời người. Nếu thầy của trời người mà có hành động đi ăn xin, dân chúng Trung quốc khinh bỉ và coi thường.
Thế cho nên, khi đạo Phật truyền sang bên Trung quốc thì các tổ phải tùy duyên thay đổi, mới lập chùa, nhà trù, tri khố, nhà bếp, có những trụ xứ riêng như thế để thọ trai, để tu tập, tránh sự khinh bỉ của thế gian do khất thực. Đây là phương tiện phải tùy nghi thay đổi nếp sống cho phù hợp địa phương để Phật giáo được tồn tại và phát triển.
Thêm vào đó, ngay cả y, áo của chúng tăng cũng đổi để phù hợp với văn hoá Trung Quốc. Đắp y màu vàng đất để hiện tướng nhẫn nhục nhu hoà, áo tràng tay rộng, áo hậu, áo nhật bình màu nâu hay xám tro là nghĩa khiêm nhường, không xe xua màu sắc. Thế thì từ màu sắc cho đến cách may y áo cũng khác hẳn đi với lúc ở Ấn độ. Đó là bởi vì tùy cơ duyên để hợp phong tục người Trung quốc mà đạo Phật mới sống được.
Còn Việt Nam ảnh hưởng văn hoá Trung quốc, nên ở chùa chúng ta vẫn chứa gạo chứa thóc, nấu nướng, không đi khất thực; cách ăn mặc cũng giống Trung quốc. Các tổ không cố chấp hình tướng, cố gắng làm sao cho chúng ta cảm thấy phù hợp với phong tục tập quán và văn hoá địa phương mà thôi.
Về việc đốt tay cúng dường, Đức Phật dạy sau khi ngài diệt độ nếu có tỳ kheo phát tâm quyết định tu pháp Tam-ma-đề, nên ở trước hình tượng Như lai, chính mình thắp một cây đèn, đốt một ngón tay hay đốt ở trên thân, đốt một nén hương, Phật nói người ấy túc trái vô thủy, trong một đời trả hết, cáo từ thế gian, thoát hẳn các lậu.
Đốt thân, đốt tay có nghĩa là đã xả được ngã ái, ngã kiến rồi, vị ấy không thấy thân này là của mình nữa. Ý nghĩa của các kinh đại thừa đều mang nghĩa bóng. Đức Phật đâu cần đốt tay của chúng ta. Đốt tay, đốt thân là xả ngã. Thân quý giá nhất mà không tiếc thì còn tiếc cái gì nữa.
Nếu làm được đốt liều mà có tâm xả như vậy thì tất cả những túc trái (những nợ ân oán kiếp trước quá khứ) có thể trả được rồi. Thân chúng ta xả, tâm chúng ta xả, cái gì cũng buông hết thì coi như rũ sạch được tất cả rồi.
Nếu cái gì cũng buông sạch rồi thì Đức Phật ấn chứng vị ấy bao nhiêu nợ nần coi như sạch hết. Với tuệ nhãn, Đức Phật mới biết và ấn chứng, chứ chúng mình làm sao thấy được. Đây là chỗ thấy của Đức Phật, thế thì giờ muốn sạch hết tội chướng thì chỉ có một việc là xả, là xong.
Đốt thân, đốt tay đây cũng có nghĩa là Đức Phật khuyên chúng ta nên xả thân tâm phụng sự cúng dường. Biết thân này là hư vọng, nên dùng nó để trên thì phụng sự Phật pháp tăng, dưới phục vụ vì lợi ích cho mọi chúng sanh. Dùng thân tâm này để lợi ích cho tất cả mọi người, như vậy mới thành trí Bát nhã, trí tuệ. Cho nên, chúng ta phải phát tâm làm Phật sự không mệt mỏi, nếu có bị những lời hiểu lầm, chê bai thì cũng không sanh phiền, sanh hận; khi được khen chúng ta cũng không tự hào một cách vô ích, rọi xét biết thân này là hư vọng, xả thân.
Vọng thân, vọng tâm là những cái hư vọng thì dùng nó để phụng sự Tam Bảo, cha mẹ ông bà, cho đến phụng sự tất cả 10 phương thì cái hư vọng đó trở thành có phước báo. Chúng ta đày đọa cái thân để tu những khổ hạnh vô ích, thì sẽ gặt kết quả vô ích. Còn biết thân là hư vọng, tận dụng cái hư vọng này phụng sự Tam Bảo và phụng sự tất cả để khai mở trí tuệ và phước đức về sau.
Quan hệ nhất là cái tâm, hễ cái tâm nó tỉnh táo, sáng suốt mà làm thiện, còn nếu tâm mê thì thân này theo đó mà tà mà mê.
Phải hàng phục cái tâm, nó lung tung thì thân giữ gìn cũng chẳng được bền. Tâm nó là ông chủ. Cứ việc quán bất tịnh để tâm tỉnh ra, một lòng vâng lời Phật dạy mà giữ giới. Còn như nếu tâm của mình chưa tỉnh thì khó mà giữ được giới. Thế cho nên quan hệ nhất là tâm phải sáng suốt thì mới giữ đường đi đúng. Nên phần này Đức Phật gọi nhiếp tâm mới gọi là giới, tức phải có sức giác tỉnh mới định lòng nơi giới. Nếu tâm của chúng ta nó vẫn sân, tham, thì phải để ý mà dạy, luyện tâm làm sao cho nó tỉnh ra, phải quán bất tịnh, cái thân này là cái đáng chán thì tự nhiên sẽ không tham, không sân. Còn tham, còn sân tức là còn mê. Quán bất tịnh để cho nó hết cái ngu si.
Đức Phật ví như cái chén đã lủng thì làm sao đổ nước đầy vào chén? Cũng như khi thân của chúng ta giới phẩm đã hủy, phạm giới ăn trộm thì mình đổ Phật pháp vào sao Phật pháp đứng yên được? Phật pháp cũng sẽ theo lỗ hỏng nó chảy tuốt đi mất, như vậy chỉ tự đánh lừa mình mà thôi, chứ không thể mà thành quả được. Nếu mà chúng ta còn trộm cắp mà cứ tu thì không hy vọng giác ngộ, chỉ mình tự đánh lừa mình, bởi lẽ đã trộm cắp thì không thể thành công được.
Nếu ai nói như vậy thì quyết định đây là lời của Phật, hễ vị nào mà còn ăn trộm thì vị ấy còn có tánh tham thì không thể thành Phật được. Đây là lời nói quyết định không có thể nào mà tha thứ được.
KHÔNG ĐẠI VỌNG NGỮ
A Nan, chúng sinh lục đạo trong thế giới như thế, tuy nơi thân tâm không còn sát, đạo, dâm, cả ba hạnh đã được viên mãn, nếu mắc phải đại vọng ngữ, thì Tam ma đề không được thanh tịnh, thành giống ma ái kiến và mất giống Như Lai; tức như chưa được gọi là được, chưa chứng gọi là chứng, hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bậc, bảo người khác rằng: Nay tôi đã được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, đạo A La Hán, thừa Bích Chì Phật hay các quả vị Bồ Tát trong thập địa hay trước thập địa, trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Những tên nhất điên ca ấy, tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa la; Phật ấn ký người ấy, mất hẳn thiện căn, không còn chính tri kiến, chìm đắm trong ba bể khổ, không thành tựu pháp tam muội. Tôi bảo các hàng Bồ Tát và A La Hán, sau khi tôi diệt độ rồi, hiện ra thân, sinh trong đời mạt pháp kia, hiện ra nhiều hình tướng khác nhau, để độ những người còn trong vòng luân hồi, hoặc làm Sa Môn, bạch y cư sĩ, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ, như thế cho đến người dâm nữ, người quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người hàng thịt, buôn bán, để khen ngợi Phật thừa với những người đồng sự, khiến cho thân tâm của họ vào được Tam ma đề; nhưng rốt ráo không tự bảo rằng tôi thật là Bồ Tát, thật là A La Hán, khinh xuất nói với những người chưa học, làm tiết lậu mật nhân của Phật, chỉ trừ đến lúc lâm chung, hoặc chăng, thầm có những lời di chúc; làm sao, lại còn có lừa gạt chúng sinh, thành tội đại vọng ngữ. Thầy dạy người đời tu phép Tam ma đề, sau rốt phải đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ tư của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn.
Vậy nên A Nan, nếu không đoạn trừ lòng đại vọng ngữ, thì cũng như khắc phân người làm thành hình cây chiên đàn, mà muốn được hương thơm, thật không có lẽ nào như vậy. Tôi dạy hàng Tỷ Khưu lấy trực tâm làm đạo trường, trong hết thảy hành động, nơi bốn uy nghi, còn không có giả dối, làm sao lại có kẻ tự xưng đã được pháp thượng nhân! Ví như người dân cũng xưng càn là đế vương để tự chuốc lấy sự tru diệt, huống nữa, là vị Pháp vương, làm sao lại dám xưng càn! Nhân đã không thật, quả ắt quanh co, như thế, mà cầu đạo Bồ đề của Phật, thì cũng như người muốn cắn rốn, làm sao mà thành tựu được. Nếu như các hàng Tỷ Khưu, tâm như dây đàn thẳng, tất cả đều chân thật mà vào Tam ma đề, thì hẳn không có các ma sự, tôi ấn chứng người đó, thành tựu được vô thượng tri giác của các hàng Bồ Tát.
Như lời tôi đây gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba Tuần.[8]
Đức Phật dạy người tu tam-ma-đề, chứng được thiền định hiện tiền mà phạm tội đại vọng ngữ thì sẽ thành giống ma ái kiến và mất giống Như-lai. Vì sao mất giống Như-lai? Cây đa-la ở Ấn độ như cây cau Việt Nam chúng ta, chặt ngang thân đi thì nó không thể mọc lên được nữa. Cũng thế người nói vọng ngữ, tự khoe nhận mình làm thánh thì Đức Phật gọi những vị ấy là vĩnh viễn đoạn thiện căn, mất chánh tri kiến và chìm đắm trong ba bể khổ.
Trong giới Phật giáo xảy ra hàng chuyện, những vị hoặc xuất gia hoặc tại gia cứ nhận mình làm thánh, là Phật sống, chưa chứng nói mình đã chứng, hoặc để cầu thế gian tôn trọng tột bậc nên nói tôi đã chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật hay Bồ tát, tôi đã đạt được thập tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng hay thập địa vv... Những người như vậy, Phật gọi là những tên Nhất-diên-ca tự tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây đa la đi.
Với tuệ nhãn, Đức Phật thấy sự nguy hiểm của vọng ngữ nên giới của ngài đặt là cấm tuyệt việc này để cho những người tầm thường đừng nhận mình làm thánh hay gián tiếp tỏ vẻ mình siêu phàm, xuất chúng. Nếu nhận mình làm Phật, làm thánh mà chính bản thân mình chỉ là kẻ tầm thường thì thế gian người ta không phân biệt được, bày tỏ tôn kính, cúng dường, phụng sự, đây gọi là đánh lừa, cho nên Đức Phật đặt giới nghiêm trọng.
Ngay cả những đại đệ tử của Phật, nếu tu tập có được thần thông nào đó, tựa như đây là những bông hoa nở trên đường thánh thiện tâm linh, tựa như đây là những diệu dụng của tâm lắng đọng. Biết thế cứ đi tiếp và đừng chấp thủ. Nếu vướng mắc vào thần thông thì sẽ thành hại và nguy hiểm, và càng không nên lợi dụng thần thông để thu thập tín đồ.
Tôn giả Đề-bà-đạt-đa vì tật đố với Phật và muốn có uy thế, muốn được các giới vua quan giàu có ủng hộ, với mưu mô củng cố uy quyền của mình để trở thành vị lãnh đạo thay Phật, nên Đề-bà-đạt-đa thị hiện thần thông phi thân giữa hư không, hiện thành con rằn bò trên đùi hay quấn thân vua A-xà-thế, khiến vua A-xà-thế hết lòng ngưỡng mộ sự siêu xuất đó mà trở thành kẻ nô lệ phục tùng cho những ý đồ đen tối của Đề-bà-đạt-đa.
Với thắng lợi chiếm được lòng tin của vua A-xà-thế rồi, Đề-bà-đạt-đa còn khuyên thái tử A-xà-thế giết cha Bình-sa-vương để đoạt ngôi, vì vua Bình-sa-vương còn hiện diện đó thì Đề-bà-đạt-đa cũng chưa thể làm gì được, bởi lẽ thái tử vẫn bị ảnh hưởng của vua cha.
Thái tử A-xà-thế vì màn vô minh bao phủ nên đã sai lính vào hạ thủ phụ thân.
Nhưng sự băng hà của vua Bình-sa-vương và lời cảm hoá của hoàng hậu Vi-đề-hi đã khiến thái tử A-xà-thế sực tỉnh tội ác tày trời của mình. Thái tử hết lòng sám hối trước Phật và sau đó trở thành người Phật tử phụng sự Tam bảo. Còn Đề-bà-đạt-đa với nhiều tội ngũ nghịch, nên khi thân hoại mạng chung, thần thức tức khắc sa vào địa ngục A-tỳ tăm tối muôn kiếp.
Thế nên, Đức Phật luôn khuyên tăng đoàn nên hạn chế sử dụng thần thông chỉ trừ mục đích hoá độ người ương ngạch. Những vị tăng trẻ càng nên hạn chế nhiều. Tôn giả Mục-kiền-liên là vị đại đệ tử được Đức Phật tin tưởng khi sử dụng thần thông hóa độ ngoại đạo.
Phật bảo phạm giới Đại Vọng ngữ là không tha thứ được, là ăn nói quanh co, là hư danh không thật như lấy phân thối khắc hình cây chiên đàn mà muốn được hương thơm, thật không có lẽ nào như vậy. Người mà thành thật tu hành thì mới thành Phật, còn dối trá giả vờ làm ông Phật là đồ giả, đồ dỏm thì làm sao thành Phật được. Ma ái kiến tức là yêu mình sau yêu người khác. Yêu mình nên mới đưa mình lên, tâng bốc mình lên để nhận sự cung kính của người khác. Đấy là ngu si mà rơi vào ngu si này thì đoạ lạc nên gọi là hầm hố. Mình đưa chúng sanh vào hầm vào hố như thế, làm sao đưa chúng sanh vào bồ đề được.
Tăng chúng đệ tử của Phật phải lấy trực tâm làm đạo trường, trong hết thảy hành động, nơi bốn oai nghi, còn không có giả dối làm sao lại có việc tự xưng mình được đạo pháp thượng nhân hơn người. Ví như người dân thường dám tự xưng mình là vua chúa thì chỉ tự chuốc lấy tai họa.
Thế nên, Đức Phật quyết định hễ còn tâm dâm, sát, trộm, dối là cái quyết định không có thể thành đạo được. Ai muốn tu theo đạo Phật thì quyết định phải vứt bốn cái sát, đạo, dâm, vọng này đi.
Giới Thanh văn chỉ cấm sự tướng, giữ thân không động, lo về sự tướng, trong khi giới Bồ tát cấm từ mống niệm tâm khởi.
Không dâm dục thì không sản sanh.
Không sát hại thì không bị giết.
Không trộm cắp thì không quả báo bị mất của.
Không sát hại thì không bị giết.
Không trộm cắp thì không quả báo bị mất của.
Giới Bồ tát và Thanh văn đều là Đức Phật nói nhưng có vị nữ giới xuất gia (thọ 5 giới) phát nguyện xin thọ giới Sa-di-ni (10 giới), Thức-xoa-ma-na [9] (250 giới), rồi tiến lên giữ Tỳ-kheo-ni giới (348 giới) là tùy trình độ khả năng và sự phát nguyện giữ của vị nữ tu. Còn có những vị khác có khả năng giữ giới bồ tát là 10 giới trọng, 48 giới khinh để lợi lạc chúng sanh. Thế thì, tu hạnh Thanh văn thì lo một đời này cho xong, giải thoát, không trở lại luân hồi sanh tử nữa, nghiệp trong sáng; trong khi Bồ tát giới tùy nguyện mà nhập ta bà để độ sanh từ đời này sang kiếp khác để tất cả cùng thành Phật. Nếu chúng sanh với hạnh nguyện như vậy thì Đức Phật sẽ truyền dạy Bồ tát giới. Quan trọng là ở chỗ người khéo biết hành trì giới pháp của Đức Phật một cách uyển chuyển và thích hợp với hoàn cảnh và môi trường xã hội đương thời.
Giới Bồ tát dành cho cả tại gia và xuất gia, không chọn căn cơ, trình độ nào cũng thọ được hết, bởi vì ai cũng có thể giữ được, ai cũng có thể thành Phật được. Giới Bồ tát là để cầu thành Phật. Lúc thọ giới bồ tát, với tâm thành khẩn thì chúng ta sẽ đắc giới. Giới Bồ tát sẽ theo chúng ta đến suốt đời vị lai. Đức Phật hết lòng thiết tha chỉ dạy ý nghĩa và việc làm của từng giới, bởi vì giới chính là tâm chúng ta, chứ không phải bên ngoài đâu, giới nào cũng thế.
Chúng ta thiết tha lãnh thọ giới thế nào thì mình sẽ được đắc giới như thế đó. Giây phút thọ giới, nhận giới như là một phép ấn sẽ có ấn tượng theo dõi hộ trì cho chúng ta mãi. Còn lúc thọ giới mà bừa bãi chẳng biết gì, thấy người thọ, mình cũng thọ thì giới của chúng ta chỉ ở ngoài da, vì không có trong tâm. Còn với tâm thọ trì thành khẩn thì nếu vì nghiệp lực kiếp sau phải làm thân con trâu, con bò thì giới bồ tát vẫn không mất. Bởi vì chúng ta vẫn còn cái nguyện ấy trong tạng thức, nó có thể bị cũ đi, nhưng nếu gặp thiện tri thức, gặp Tam Bảo, đủ duyên thì hoa sẽ nở và quả sẽ kết trái.
Nếu chúng ta lỡ phạm giới rồi thì phải hết lòng thiết tha sám hối. Cố gắng học giới, trì giới thì giới thể hay năng lực tâm linh của chúng ta được phục hồi.
Đọc qua phần giới của Lăng nghiêm, chúng ta thấy Đức Phật nói giới là để hộ trì và bảo vệ đời sống an lạc của mọi người và mọi nhà. Chúng ta khéo ứng dụng và hành trì thì chúng ta sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và tha nhân.
1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 549-4.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 721-2.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
4 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.557-8.
5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
6 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.559-61.
7 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
8 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 562-5.
9 Pàli Sikkhamànà, sau khi thọ giới Sa di, vị nữ tu sĩ phải trải qua 2 năm học tập các giới pháp căn bản của Tỷ kheo ni gồm 250 giới Thức Xoa ma na.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 721-2.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
4 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.557-8.
5 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
6 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.559-61.
7 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292.
8 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 562-5.
9 Pàli Sikkhamànà, sau khi thọ giới Sa di, vị nữ tu sĩ phải trải qua 2 năm học tập các giới pháp căn bản của Tỷ kheo ni gồm 250 giới Thức Xoa ma na.
Thích Nữ Giới Hương
0 comments:
Post a Comment