Nguyên Minh
Kinh Sách của Nguyên Minh dịch/trước tácKinh Thánh nói rằng Thiên Chúa tạo ra con người đầu tiên từ bùn đất cùng lúc với một vườn Địa đàng, trong đó có đầy đủ tất cả những gì tốt đẹp nhất mà con người có thể tận hưởng, kể cả một cây trường sinh để giúp con người có thể sống lâu mãi mãi.
Rồi con người – khi ấy là ông A-đam và bà E-và – sa ngã vì nghe theo lời xúi giục của một con rắn xảo quyệt. Họ đã không vâng theo lời Chúa, làm trái lại những gì Chúa phán dạy, dám ăn cả trái cấm mà Chúa không cho phép họ ăn.
Thảm họa của con người bắt đầu từ đó. Chúa đã đuổi họ ra khỏi vườn Địa đàng và không cho họ được ăn trái cây trường sinh nữa. Con người ngay từ khi đó bắt đầu nhận lãnh đầy đủ những nỗi khổ đau mà đến nay vẫn còn đeo đuổi họ – đó là những nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, và kèm theo là vô số những khổ đau của cuộc sinh tồn.
Nhưng nếu như việc ăn trái cấm đã là nguyên nhân mang đến tai họa cho con người, thì chính điều đó cũng là manh mối đã tạo ra một tia hy vọng để con người có thể quay về với Chúa. Bởi vì, cũng theo Kinh Thánh, việc ăn trái cấm đã làm cho con người biết phân biệt điều thiện và điều ác. Và giờ đây, trong cuộc lưu đày dài lâu của mình, con người chỉ còn lại một hướng thoát duy nhất là nhờ vào sự phân biệt đó để bỏ điều ác và hướng về điều thiện. Bởi vì, Chúa đã phán dạy là những ai biết làm điều thiện và kính tin vào Chúa sẽ được trở về Nước Chúa.
Nước Chúa hay thiên đường, chính là điều mà những tín đồ của Chúa luôn mong muốn. Bởi vì người ta tin rằng ở đó không còn có những khổ đau triền miên như trong cuộc sống hiện tại này. Nói cách khác, người ta tin rằng đó là con đường duy nhất để chấm dứt những khổ đau của cuộc sống trần tục và được hưởng những ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa. Và để có thể được lên thiên đường, con người phải biết làm điều thiện và đặt niềm tin vào Đức Chúa.
Ấn Độ giáo cũng như nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ từ thời cổ đại cũng đã đặt niềm tin vào một đấng Phạm thiên (Brahman) sáng tạo thế giới, và kèm theo đó là một cõi trời đầy hoan lạc dành cho những ai biết làm việc thiện và thờ phụng đấng Phạm thiên.
Tín đồ Hồi giáo cũng được người sáng lập của họ là nhà tiên tri Mohammed dạy rằng có một thiên đường dành cho những ai tin vào đấng Allah, biết thực hành việc bố thí, ăn chay (theo cách của đạo Hồi), hành hương đến thánh địa Mecca, giữ đúng theo lễ nghi đạo Hồi và sống có hiếu nghĩa. Đường vào thiên đường ấy là một cây cầu bảy nhịp rất nhỏ mà tất cả những ai đã gây ra tội lỗi, thiếu đức tin đều sẽ phải rơi ngã trước khi đến được thiên đường. Nơi họ rơi xuống chính là địa ngục!
Nói chung, hầu hết các tôn giáo đều có những khái niệm tương tự về thiên đường và địa ngục. Thiên đường là một hứa hẹn tốt đẹp, là phần thưởng khích lệ dành cho những ai tin và làm theo các giáo điều hay lời dạy của đấng giáo chủ. Ngược lại, địa ngục được mô tả là nơi tập trung tất cả những hình thức khác nhau của sự khổ đau cùng cực, kể cả những sự hành hạ khủng khiếp nhất mà con người có thể tưởng tượng ra được, chẳng hạn như bị cưa xương xẻo thịt, bị nấu trong vạc dầu, bị thiêu đốt trong lửa nóng... Và địa ngục luôn là nơi chờ đợi những kẻ ác độc, gây nhiều tội lỗi cũng như không có đức tin.
Tóm lại, thiên đường được xem như phần thưởng xứng đáng dành cho người tốt và địa ngục chính là sự trừng phạt thích đáng dành cho kẻ xấu.
Nhưng đó là niềm tin của những tín đồ. Điều gì sẽ xảy ra với những người không phải là tín đồ của các tôn giáo đó, hoặc không là tín đồ của bất cứ tôn giáo nào? Phải chăng Nước Chúa sẽ từ chối những người không tin Chúa? Phải chăng thiên đường không có chỗ cho những ai phủ nhận đấng Allah? Và nếu họ tạo ra nhiều tội ác, họ sẽ chịu sự trừng phạt ở địa ngục nào?...
Vào thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời tại Ấn Độ, niềm tin về thiên đường và địa ngục được biết là đã hình thành từ trước đó. Tuy nhiên, ngài đã phủ nhận những cách hiểu theo truyền thống để nhận thức lại toàn bộ vấn đề và đưa ra những lời dạy hoàn toàn không giống như những tôn giáo khác.
Đức Phật không thừa nhận thiên đường và địa ngục như là những hình thức thưởng phạt dành cho những ai có hoặc không có đức tin. Thay vì vậy, ngài đưa ra giáo lý nhân quả để giải thích cho các khái niệm này. Chính vì vậy, cách hiểu về thiên đường và địa ngục của đạo Phật là hoàn toàn khác biệt so với các tôn giáo khác. Nói một cách chính xác hơn, đức Phật không nói về thiên đường, nhưng thừa nhận một khái niệm có phần nào tương tự là thiên giới, hay các cõi trời của chư thiên.
Có nhiều khác biệt trong cách hiểu về thiên giới của đạo Phật với thiên đường của các tôn giáo khác. Trước hết, Phật dạy rằng những ai được sinh về thiên giới, hay các cõi trời, là hoàn toàn do những việc lành mà họ đã làm, chứ không liên quan đến việc họ có tin hay không tin vào một tôn giáo nào đó. Đối với Mười điều lành mà Phật đã dạy, bất cứ ai làm theo đúng như vậy đều sẽ được sinh về cõi trời, hưởng những sự khoái lạc, vui thú ở nơi đây, bất kể người đó tin theo tôn giáo nào. Mười điều lành, hay Thập thiện đạo, bao gồm các điều sau:
1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh.
2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người.
3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng.
4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật.
5. Không nói trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi.
6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau.
7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận.
8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn.
9. Không sân nhuế, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục.
10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến.
Mười điều lành như được kể trên không mang màu sắc riêng biệt của một tôn giáo. Đó là những điều được xem là tốt đẹp đối với tất cả mọi con người. Một xã hội mà tất cả công dân đều thực hiện đúng theo mười điều này thì tự nó đã có thể xem là một thiên đường. Sẽ không còn nữa các tội ác trong xã hội, và mọi người đều chia sẻ nhau tất cả những gì mình có, trong một tinh thần thương yêu và hòa hợp lẫn nhau. Vì thế, khi tất cả những người thực hành mười điều lành này cùng sống chung với nhau ở một nơi thì nơi đó chính là thiên giới, chính là những cõi trời với tất cả những niềm vui và sự sung sướng như con người mong ước!
Đức Phật cũng dạy rằng, không chỉ có một cõi trời duy nhất, mà có rất nhiều cõi trời khác nhau, với những phước báo khác nhau. Khi một người thực hành theo Mười điều lành, người ấy chắc chắn sẽ được sinh về cõi trời như một kết quả tất nhiên của những việc lành mà họ đã làm. Nhưng tùy theo mức độ làm lành mà họ sẽ được sinh về những cõi trời khác nhau, tương ứng với nghiệp lành mà họ đã tạo. Điều đó có nghĩa nôm na là, càng làm nhiều việc lành thì phước báo được hưởng sẽ càng lớn, và thời gian được thọ hưởng những phước báo đó cũng kéo dài tùy thuộc vào mức độ những việc lành đã làm.
Như vậy, các cõi trời không phải là nơi mà người ta được tận hưởng khoái lạc mãi mãi như cách hiểu về thiên đường. Để tiếp tục được hưởng phước báo, người ta phải tiếp tục thực hành các điều lành. Chừng nào mà họ còn thực hành các điều lành, thì đời sống nơi thiên giới của họ sẽ còn được kéo dài, hoặc có thể được thác sinh về những cõi trời tốt đẹp hơn nữa. Nhưng nếu họ không làm lành, hoặc ngược lại còn chuyển sang làm các điều ác, phước báo đã tạo ra của họ sẽ cạn kiệt dần và cuối cùng không còn nữa. Khi ấy, họ sẽ phải thác sinh vào những cảnh giới xấu, tùy theo những việc ác mà họ đã làm.
Cũng theo cách hiểu như trên, các cõi trời không phải là những nơi đã dứt hết khổ đau. Bởi vì chư thiên ở đó vẫn không thoát khỏi quy luật biến đổi vô thường và những nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết. Nếu họ không biết lo tu tập và làm lành, sự sung sướng của họ sẽ không kéo dài mãi mãi, và họ vẫn phải rơi trở lại những cảnh giới xấu hơn.
Vì thế, đạo Phật không xem việc được sinh lên cõi trời là cứu cánh rốt ráo để chấm dứt khổ đau. Bởi vì đó cũng chỉ là những cảnh giới chưa thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Việc thực hành Mười điều lành tuy là tốt đẹp nhưng cũng vẫn chỉ thuộc về pháp thế gian, nên cũng chỉ có thể mang lại những kết quả tốt đẹp trong phạm vi thế gian mà thôi. Để chấm dứt khổ đau và thoát khỏi sinh tử, người ta cần phải biết đi theo một hướng khác, đó là tu tập các pháp có thể giúp vượt ra khỏi thế gian này, gọi là các pháp xuất thế gian. Các pháp đó là Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên và Lục ba-la-mật.
Về cơ bản, tất cả những pháp này không hề đi ngược lại với Mười điều lành, mà thực sự còn là những hình thức nâng cao hơn nữa, mở rộng hơn nữa của các điều lành ấy. Nhưng ngoài ra, mục đích chính của các pháp này lại là mang đến cho người thực hành chúng những nhận thức đúng thực về cuộc sống. Và chính nhờ có được những nhận thức đúng thực về cuộc sống mà chúng ta mới có được những cơ sở để nhận rõ và dứt trừ khổ đau trong cuộc sống. Ý nghĩa của sự giải thoát trong đạo Phật được hình thành từ khái niệm cơ bản này: chấm dứt mọi khổ đau trong cuộc sống.
Như vậy, thiên giới hay các cõi trời chỉ là sự tạm dừng của những khổ đau trong một thời gian và với một mức độ nhất định. Vì thế, đó không được xem là sự giải thoát. Nếu có thể tin được rằng thiên đường là nơi vĩnh viễn đoạn tuyệt mọi khổ đau trong cuộc sống, thì đó sẽ chính là sự giải thoát mà đạo Phật hướng đến. Nhưng điều quan trọng ở đây lại là, có thể tin được điều đó hay không? Đạo Phật không thừa nhận một thiên đường theo cách đó, và các tín đồ đạo Phật không cầu nguyện để được lên thiên đường, mà hướng đến sự giải thoát theo một cách khác. Đó là thực hành theo đúng những lời Phật dạy, nghĩa là tu tập các pháp Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên và Lục ba-la-mật.
Tứ diệu đế, được hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là bốn chân lý về đời sống. Bởi vì không ai có thể phủ nhận chúng, nên chúng được xác định là chân lý. Chẳng hạn, chân lý thứ nhất (Khổ đế) nói lên tính chất khổ đau của đời sống, với những nỗi khổ như sanh, già, bệnh, chết... Dù muốn hay không, cũng không ai có thể phủ nhận được sự thật là mọi người đều phải nhận chịu những nỗi khổ này. Tương tự, các chân lý tiếp theo là về nguyên nhân của đau khổ (Tập đế), sự chấm dứt của đau khổ (Diệt đế) và những phương thức tu tập để chấm dứt khổ đau (Đạo đế). Theo cách hiểu truyền thống, người thực hành theo Tứ diệu đế sẽ có thể đạt đến sự giải thoát và chứng bốn thánh quả là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Thánh quả A-la-hán được xem là quả vị cao nhất của hàng Tiểu thừa hay Thanh văn thừa.
Thập nhị nhân duyên hay 12 yếu tố làm sinh khởi đời sống. Mười hai yếu tố này là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử hay già chết.
Từ vô minh cho đến già chết là một vòng xoay khép kín mà thật ra không có điểm khởi đầu hay kết thúc. Đời sống được hình thành và chịu sự chi phối của 12 nhân duyên này, theo một nguyên tắc gắn bó và tác động lẫn nhau, nên không có bất cứ yếu tố nào có thể tồn tại độc lập. Khi hiểu và nhận thức một cách rốt ráo về các nhân duyên này, chúng ta có thể phá vỡ chuỗi liên kết của chúng bằng cách trừ bỏ một trong các yếu tố, giống như người ta có thể tháo rời được sợi dây xích bằng cách cắt rời đi một mắt xích.
Quán xét 12 nhân duyên sẽ giúp người thực hành nhận ra được bản chất thực sự của đời sống, sự tương sinh tương khởi và giả hợp, không thường tồn. Từ đó, chúng ta nhận ra được là không hề có một bản ngã thật sự để ta ôm ấp, bảo vệ và xây dựng mọi yếu tố của đời sống xoay quanh đó. Nhận thức đúng thật này giúp ta xóa bỏ mọi ảo tưởng về đời sống và cắt đứt được mọi ràng buộc, đạt đến sự giải thoát. Theo cách hiểu truyền thống, người thực hành theo giáo lý Thập nhị nhân duyên sẽ chứng quả thành Duyên giác Phật, cũng còn gọi là Bích chi Phật hay Độc giác Phật.
Lục ba-la-mật, hay Lục độ, là sáu pháp tu tập giúp người thực hành có thể tự mình chuyển hóa tự tâm và đồng thời mang lại lợi ích cho mọi người quanh mình. Sáu pháp đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Những pháp này vừa là phương thức tu tập, vừa chính là những đức tính giúp người thực hành có thể tự mình đạt đến sự giải thoát. Chẳng hạn, khi chúng ta chưa từng biết đến sự bố thí, thì việc thực hành bố thí là một phương thức tu tập, được thực hiện như một yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên, quá trình thực hành sẽ giúp cho việc bố thí dần dần trở thành một tính chất của tự thân, một đức tính giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và tiến dần đến sự giải thoát. Tương tự, các pháp khác như trì giới cho đến trí huệ cũng đều là như vậy. Và do đó mà việc thực hành các pháp ba-la-mật có thể giúp chuyển hóa được tự tâm của mỗi chúng ta theo hướng ngày càng tốt đẹp hơn.
Nhưng việc thực hiện các pháp ba-la-mật cũng đồng thời làm lợi ích cho mọi người quanh ta. Chẳng hạn như khi ta thực hành bố thí, người nhận bố thí sẽ vơi bớt phần khó nhọc. Khi ta thực hành nhẫn nhục, những người chung sống với ta sẽ tránh được những xung đột không đáng có. Mỗi một pháp ba-la-mật đều mang lại lợi ích cho người khác như thế. Do đó, theo cách hiểu truyền thống thì sáu ba-la-mật là pháp tu của hàng Bồ Tát, không chỉ cầu sự giải thoát cho riêng mình (như trường hợp của các vị Thanh văn, Duyên giác) mà còn hướng đến sự cứu giúp, làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ là khái niệm thiên đường không hề đồng nghĩa với sự giải thoát trong đạo Phật. Và cũng tương tự như thế, cách hiểu về địa ngục của đạo Phật cũng không hoàn toàn giống như các tôn giáo khác.
Nếu như thiên giới hay các cõi trời là nơi thác sanh của những người thực hành Mười điều lành, thì địa ngục chính là nơi chờ đón những ai làm ngược lại Mười điều lành ấy, gọi là Mười điều ác, chẳng hạn như là sát sanh, trộm cắp, tà dâm... cho đến si mê, tà kiến.
Như vậy, Phật dạy rằng không hề có bất cứ một đấng phán xét nào đó để đưa ra sự trừng phạt nơi địa ngục. Chỉ có những hành vi tạo tác của chúng ta quyết định điều đó. Nếu chúng ta thực hiện Mười điều ác, đó là chúng ta tự ký vào bản án của chính mình nơi địa ngục.
Đức Phật cũng dạy rằng, không chỉ có một địa ngục hay hỏa ngục duy nhất, mà tùy theo mức độ nặng nề của những điều ác mà chúng ta đã tạo, chúng ta sẽ có thể thác sanh vào những địa ngục khác nhau, với những sự đau đớn, khổ sở khác nhau. Trong kinh Phật có nhắc đến rất nhiều địa ngục, chẳng hạn như địa ngục A-tỳ hay cũng gọi là địa ngục Vô gián, là cảnh địa ngục mà sự hành hạ khổ não không lúc nào dừng nghỉ cả (vô gián có nghĩa là không gián đoạn); địa ngục Đại nhiệt, là cảnh địa ngục với sức thiêu đốt nóng nảy đến cực kỳ; địa ngục Đại khiếu, địa ngục Hiệu khiếu, địa ngục Hắc thằng... và rất nhiều cảnh địa ngục khác nữa. Nói chung, tùy theo tính chất của những việc ác đã tạo mà người ta sẽ bị chiêu cảm vào những cảnh địa ngục khác nhau.
Và nếu như khi làm việc ác là chúng ta đã tự chọn lấy con đường vào địa ngục, thì cũng không ai khác có thể cứu chúng ta ra khỏi địa ngục ngoài việc tự tâm chúng ta biết thay đổi hướng về điều lành. Mỗi một niệm lành khởi lên sẽ giúp người ta rời xa dần các cảnh địa ngục, giảm nhẹ các hình phạt khổ não mà họ đang thọ nhận.
Tuy nhiên, tất cả những gì chúng ta vừa đề cập đến về thiên đường và địa ngục hay các cõi thiên giới cũng đều chỉ được nghe thấy qua kinh điển, sách vở... Và liệu chúng ta có thể tin chắc được vào những điều đó hay không? Một số người cho rằng đó là những khái niệm có thể tin được, nhưng lại có những người khác cho rằng không thể tin được khi không có gì chứng minh cụ thể cả. Trong những phần tiếp theo, chúng ta sẽ thử bàn đến những quan điểm, nhận thức khác nhau về vấn đề này để rồi mỗi người sau đó sẽ tự đưa ra nhận thức hay kết luận.
Trích trong "AI VÀO ĐỊA NGỤC" Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
0 comments:
Post a Comment