Người Việt cũng giống các dân tộc khác, cũng muốn sống đời đời kiếp kiếp mà những bí ẩn về thuật ướp xác được nghiên cứu vừa qua là một minh chứng cho khát vọng phi thường ấy.
Nhục thân của thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu (Bắc Ninh) mang đậm màu sắc tâm linh, nhưng với nhãn quan khoa học, người đời nay đặt câu hỏi rằng, bằng phương pháp gì và con đường nào mà thi thể của ông không bị thời gian hủy hoại?
“Cái gì khô héo hơn cọng rơm khô? – Một trái tim đau buồn… – Cái gì lạ lùng nhất đời? – Ai cũng thấy chúng sinh đi về cõi âm ty, nhưng ai còn sống thì lại tìm cách sống đời đời kiếp kiếp. Đấy là điều lạ lùng nhất…” (trích Mahabharata – sử thi Ấn Độ vĩ đại, tác phẩm được coi là mênh mông và lớn lao hơn cả “Iliad và Odyssey” của Homer). Người Việt cũng giống các dân tộc khác, cũng muốn sống đời đời kiếp kiếp mà những bí ẩn về thuật ướp xác được nghiên cứu vừa qua là một minh chứng cho khát vọng phi thường ấy.
1. Đưa xác thiền sư… nhập việnNhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh sau khi tu bổ |
Nhục thân của ba vị thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường, Như Trí được phát hiện ở chùa Đậu và chùa Phật Tích đã làm chấn động giới khoa học, đặc biệt là ngành khảo cổ học Việt Nam. Những bức tượng cũ kỹ, nhuốm màu thời gian tưởng chừng chỉ tồn tại như là một biểu tượng linh thiêng trong lòng Phật tử nhưng có ai ngờ, đó là những di hài thực sự của người đã viên tịch trong khi ngồi thiền với mục đích để thân thể của họ trở nên vĩnh cửu.
PGS.TS Nguyễn Lân Cường là một trong những nhà nhân chủng học hàng đầu và là người duy nhất của Việt Nam được đào tạo chuyên ngành phục chế lại mặt theo xương sọ tại Viện Hàn lâm CHDC Đức (cũ). Ông là nhân vật chủ chốt trong việc phát hiện và phục chế nhục thân của các vị thiền sư và từ những nghiên cứu này đã hé mở ra một phương pháp ướp xác kỳ diệu nhờ vào năng lực đặc biệt của các vị thiền sư mà có lẽ người đời vốn chỉ được nghe trong… truyền thuyết!
Bắt đầu từ cái gác chuông bị dộtChùa Đậu, ngày 3/5/1983. PGS Nguyễn Lân Cường đứng trên gác chuông rêu phong, gió phần phật bay làm rối bù mái tóc của ông. Chùa Đậu là ngôi chùa cổ, cách trung tâm thủ đô khoảng 25 cây số, đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử từ năm 1960. Trước cửa tam quan có một đầm sen, xung quanh chùa là mênh mông nước nên nhìn từ trên xuống, ngôi chùa như một đóa sen dập dềnh trong sương sớm.
PGS Nguyễn Lân Cường chợt nhớ về câu chuyện GS.TS Tô Ngọc Thanh sau một lần về thăm chùa Đậu đã phát hiện gác chuông nhà thờ bị hỏng nặng. Điều đặc biệt là, GS Thanh đã nói đến 2 pho tượng cổ trong chùa có hình dáng vô cùng kỳ lạ.
Ông giật mình vội vã chạy xuống phía dưới. Ông đứng lặng yên bên chiếc am nhỏ phía bên phải cửa chùa. Đây là am thờ thiền sư Vũ Khắc Minh và trong am vẫn còn nguyên pho tượng mà thời gian đã làm ẩm mốc, tróc lở. Tượng thiền sư ngồi trong am, sau tấm mành tre, gương mặt như suy tư về cõi Phật. Đầu thiền sư hơi cúi xuống, lưng cong gập, hai tay đặt trước bụng, chân ngồi thiền khoanh tròn, bàn chân trái ngửa vắt lên đùi phải. Đây là một thế ngồi tương tự như rất nhiều tượng Phật khác, đó là thế ngồi Kết Già Phu Tọa. Phần chân của tượng thiền sư Vũ Khắc Minh đúng với cách ngồi Cát Tường. Theo GS Nguyễn Khắc Viện thì đây là cách ngồi tốt nhất để tập trung tư tưởng, gọi là tọa thiền chủ động, tọa thiền để rồi nhập thiền. Trong quá trình này, người ngồi thiền có thể chủ động về sinh lý ngay từ trước cho đến lúc tập trung cao độ và đến giai đoạn như pho tượng đang diễn tả thì hầu như không còn cảm giác nữa.
Như có điều gì đó thôi thúc, ông Cường xem xét tỉ mỉ từng chi tiết của pho tượng này. Ông phát hiện thấy hai vết nứt ở đầu gối nhưng đã được gắn lại vội vã bằng sơn ta. Vùng trán và hai hốc mắt cũng xuất hiện một số vết nứt. Có vết nứt rất lớn từ đỉnh đầu chạy theo đường khớp dọc của xương sọ, vòng xuống bên trái xương trán, vắt qua chân mày rồi tách thành ba vết nứt khác; một vết nứt nữa chạy từ gốc cánh mũi trái xuống phía dưới qua phía ngoài của khe miệng.
Sau vài ngày “chăm sóc đặc biệt” pho tượng, bằng sự nhạy cảm của nhà nhân chủng học nhiều kinh nghiệm, ông Cường đã đưa ra một nghi vấn rùng mình: trong pho tượng có xương người, tức là bức tượng này là tượng người thật chứ không phải tượng đồng hay gỗ!
Muốn khẳng định sự thật này thì đương nhiên, ông Cường không thể “mổ” pho tượng ra để xem được, thậm chí, ông không thể và không dám đập vỡ bất cứ bộ phận nào của pho tượng.
Phim chụp X quang xương sọ của thiền sư Vũ Khắc Minh |
Không còn cách nào khác, ông Cường liều lĩnh đề nghị được đưa pho tượng đi bệnh viện để… chụp X-quang. Ông muốn chứng minh 3 điều: trong bức tượng không hề có cốt kim loại, hoặc gỗ để làm khung liên kết các xương; không hề có chất dính để dính các xương vào với nhau; các xương nằm theo đúng vị trí giải phẫu.
Đây là một đề nghị rất khó chấp nhận và chưa có tiền lệ. Pho tượng này đã nằm ở chùa Đậu rất lâu và nổi tiếng linh thiêng. Việc đưa tượng đi viện sẽ làm nhiều Phật tử hiểu lầm rằng, đó là việc báng bổ và bất kính. Thế nhưng, với sự nhiệt tình của mình, ông Cường đã giải thích cặn kẽ mục đích của mình cho trụ trì nhà chùa và cuối cùng đã nhận được sự đồng ý.
Chiều ngày 25/5/1983, ông Cường trực tiếp chỉ đạo đưa bức tượng “nhập” Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Ông nhớ lại: “Việc đó chúng tôi phải làm thật nhanh gọn, tránh để nhiều người biết vì sợ có sự cản trở. Chúng tôi đưa thẳng bức tượng vào Khoa X-quang, với sự giúp đỡ tận tình của PGS Đặng Văn Ấn, lúc đó là Chủ nhiệm Khoa, các kỹ thuật viên đã tiến hành chụp soi phần sọ, ổ ngực và ổ bụng. Sự thật đúng như chúng tôi dự đoán, bức tượng này thực chất là một di hài”.
Qua những tấm phim chụp, ông Cường thấy toàn bộ phần xương trong bức tượng người thật này. Xương sườn, xương đốt sống đã đổ sập xuống, nằm gọn trong khoang bụng. Hộp sọ còn nguyên vẹn, phần xương lá mía và phần xương đỉnh trên không bị đục vỡ như trên sọ của vua Ai Cập Ramsès V để lấy não ra rồi đưa nhựa thơm vào. Phần răng của vị thiền sư còn nguyên vẹn. Tất cả phần xương tay, chân, bàn chân, xương sườn, xương bả vai đều còn nguyên và nằm đúng vị trí giải phẫu. Một tấm phim chụp chậu hông ở phía trước thấy rõ góc của xương mu là một góc nhọn. Điều này chứng tỏ đây là di hài của một người đàn ông, vì nếu là di hài của người đàn bà thì góc này phải là một góc tù.
Về cơ bản, di hài này là một thực thể tương đối hoàn hảo, nguyên vẹn. Bằng cách nào mà vị thiền sư này giữ được thân thể mình vẹn nguyên qua hàng thế kỷ như thế trong khi ngay cả đến những xác ướp Ai Cập cổ đại cũng không thể hoàn hảo được như vậy?
Bí mật về phương thức thiền táng đặc biệt
Xác ướp nổi tiếng nhất ở Trung Quốc là thi hài của một phụ nữ ở Mã Vương Đôi, sống cách ngày nay 2.000 năm. Bà được hút hết máu, thay vào bằng một chất lỏng gốc thủy ngân, quấn thêm 13 lớp vải, sau đó được bỏ vào một cái quan tài chứa đầy chất sát trùng và chiếc quan tài đó lại được đặt trong một cái quan tài khác. Tất cả được chôn thẳng đứng trong một hố sâu 15m, phía trên chèn than gỗ, tro và đất sét mịn để nước không thấm qua, nhờ vậy xác không bị thối rữa mà vẫn mềm mại. Các nhà khoa học đã tìm hiểu và cho thấy bà đã qua đời vì bệnh tim mạch. |
Từ việc nghiên cứu những táng thức như địa táng, thủy táng, thiên táng, huyền táng… nhóm nghiên cứu của PGS Nguyễn Lân Cường đã đặt tên táng thức các vị thiền sư ở chùa Đậu là thiền táng (táng theo tư thế ngồi thiền) hay tượng táng (làm thành tượng để táng).
Câu hỏi đặt ra là, thiền sư Vũ Khắc Minh đã dùng thứ năng lượng nào để có thể viên tịch trong trạng thái ngồi thiền mà nhục thể của ông có thể thách thức được với thời gian?
Chúng tôi đã được nghe một câu chuyện về phương thức… tự ướp xác mình một cách kỳ công đến mức khổ hạnh. Cũng đi vào cõi vĩnh hằng theo tư thế ngồi thiền, đó chính là xác ướp ở đền Churenzy ở tỉnh Yamagata – Nhật Bản. Ngôi đền này được xây dựng từ 400 năm trước và rất nổi tiếng vì giữ được nhục thân của vị danh tăng Tetsumonkai. Tetsumonkai là một nông dân rất khỏe mạnh, đẹp trai và đã có không ít cô gái trong vùng để ý đến. Vào một ngày nọ, khi đang làm việc trên cánh đồng, ông bị hai Samurai say rượu gây sự. Ông đã tự vệ bằng chính chiếc hái trên tay và giết chết hai Samurai kia.
Sau khi giết người, biết rằng tính mạng của mình sẽ bị đe dọa, ông vội vã trốn vào vùng núi gần đó và tới chùa Churenzy. Trước khi trốn lên đây, Tetsumonkai đã biết rằng đạo Phật tin tưởng vào vòng luân hồi và sự đầu thai. Các tín đồ Phật tử phải trải qua tu luyện mới đạt đến độ trở thành bất tử. Tuy nhiên, Tetsumonkai không hề biết rằng, những vị sư tại đền Churenzy này không giống những Phật tử bình thường. Họ thuộc một nhánh của đạo Phật có tên là Shingon. Các tín đồ Phật tử Shingon tin rằng có một con đường tắt để đạt đến độ khai sáng. Thay vì phải theo vòng luân hồi đầu thai thông thường, họ tin rằng, nếu để cơ thể mình chịu đựng những gì cùng cực nhất thì người ta có thể trở thành một đức Phật – một kiểu Thánh sống ngay trong cuộc đời hiện tại của mình.
Di hài của thiền sư Tetsumonkai tồn tại đến ngày nay và vẫn luôn được người dân Nhật Bản thờ cúng |
Tetsumonkai đã thoát khỏi sự trả thù của các Samurai nhưng ông luôn dằn vặt vì đã giết người. Để thoát khỏi những dằn vặt đó, ông quyết định tìm đến sự thanh sạch trong tinh thần thông qua những trừng phạt về thể xác. Ông bắt đầu tập luyện những nghi lễ Shingon ở trong một ngọn núi gần đó. Hàng ngày, ông leo lên đỉnh núi rồi lại leo xuống nhiều lần. Đến mùa đông, ông tắm trong làn nước lạnh giá.
Theo quy định, phụ nữ không được phép vào ngôi đền này. Nhưng rồi một lần, chuyện không ngờ ấy đã xảy ra. Một cô gái điếm vốn quen biết với Tetsumonkai khi xưa đã lẻn vào đền để gặp ông. Lập tức, ông tóm cổ tay cô gái và dẫn ra phía sau đền. Cô gái chết lặng người khi thấy Tetsumonkai lôi từ trong người ra một con dao nhọn hoắt rồi trong chớp mắt cắt phăng… bộ phận sinh dục của mình và đưa cho cô gái. Ông dằn mạnh từng lời: “Hãy đi đi và đừng bao giờ quay lại ngôi đền này nữa”.
Hai mươi năm trôi qua, Tetsumonkai đã hoàn thiện cách tự chối bỏ bản thân và đạt đến độ thanh khiết về tinh thần. Đến năm 84 tuổi, ông quyết định tự ướp xác mình.
Tetsumonkai bước vào một căn hầm nhỏ, nằm sâu dưới đất, chỉ đủ chỗ cho một người ngồi thiền. Hầm kín mít, chỉ có một ống dẫn khí vào bên trong. Ông không hề ra ngoài hay ăn uống bất cứ thứ gì trong đó. Hàng ngày, ông chỉ có mỗi một động tác là rung chuông để báo cho người bên ngoài biết là ông còn sống. Mười ba ngày trôi qua, hôm nào tiếng chuông cũng vang lên, nhưng đến ngày thứ mười bốn thì chỉ còn sự im lặng.
Sau đúng một nghìn ngày, người ta mới mở hầm mộ ra và vô cùng kinh ngạc khi thấy Tetsumonkai vẫn ngồi nguyên ở tư thế thiền như khi còn sống. Đôi mắt ông đã khép lại nhưng thân thể ông không hề có dấu hiệu của sự thối rữa. Thi thể ông đã trường tồn cùng thời gian.
Không ai biết bằng cách nào mà nhà sư Tetsumonkai làm được điều kỳ diệu như vậy. Mãi về sau này, các nhà khoa học đã tìm ra rằng, Tetsumonkai đã âm thầm ướp xác mình trước khi ông chết hàng nghìn ngày. Giai đoạn đầu tiên trước đó là khoảng 3 năm, Tetsumonkai sống theo chế độ ăn kiêng rất hà khắc. Ông không ăn bốn loại ngũ cốc: gạo, lúa mì, đậu tương, vừng mà chỉ ăn các loại hạt ở trong rừng. Giai đoạn thứ hai khoảng hơn 3 năm, ông chỉ ăn một lượng nhỏ vỏ và rễ cây thông. Trong giai đoạn cuối cùng, ông uống một loại trà đặc biệt được tinh chế từ nhựa cây urushi (giống cây sơn ta ở Việt Nam). Ông còn uống một loại nước suối có hàm lượng thạch tín rất cao. Chính nước suối có chứa thạch tín và nhựa cây urushi đã giết chết những vi sinh vật làm phân hủy cơ thể. Chúng là những chất xúc tác cuối cùng, trước khi các vị thiền sư bước vào hầm mộ ngồi thiền, nó chẳng những diệt vi khuẩn gây ra việc phân hủy xác mà còn đóng vai trò bảo quản cho các mô của cơ thể.
Xác ướp của thiền sư Tetsumonkai là một minh chứng cho sự khổ luyện dài lâu và những phương pháp rất khoa học.
Quay trở lại câu chuyện của vị danh tăng Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, sau quá trình phát hiện, phục chế, các nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu và tìm ra phương pháp ướp xác của vị thiền sư này. Và họ đã ngỡ ngàng nhận ra công phu tuyệt đỉnh nhờ sự tu luyện khổ hạnh cùng năng lượng đặc biệt của con người mà chúng tôi sẽ nói ở kỳ sau.
Nhục thân của các vị thiền sư chùa Đậu đã tồn tại qua hơn 3 thế kỷ, chứng kiến biết bao nhiêu biến cố trong thiên tai, binh lửa. Đây là di sản vô cùng quý giá, là dấu ấn tâm linh và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Có thể coi đây là một dạng xá lợi, là kết quả của quá trình dùng năng lượng đạt đến đỉnh cao của thiền định.
2. Dự án không được phép sai sót
Mắc màn sơn tượng thiền sư
Tại Viện Thông tin Khoa học Xã Hội (Hà Nội), PGS Nguyễn Lân Cường đưa cho chúng tôi hai bức ảnh chụp lại bức tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Bức tượng thời điểm đó còn bóng nước sơn, không hề có vết nứt nào. So sánh với tình trạng của bức tượng ở thời điểm hiện tại thì thấy rằng, chỉ sau vài chục năm, do tượng để trong am cạnh chùa rất ẩm ướt nên đã xuống cấp nặng, trong đó, vết nứt ở đầu gối là trầm trọng nhất.
Tìm hiểu sâu hơn về vết nứt đáng tiếc này, PGS Nguyễn Lân Cường đã được nghe một người dân bản địa là ông Phạm Văn Sơn, ở xã Nguyễn Trãi, Thường Tín, Hà Nội kể lại rằng: “Hồi tóc còn để chỏm, tôi đã nghe nói rằng, có hai người nước ngoài tới tham quan pho tượng. Họ xăm soi một lúc rồi dùng ba toong đập vỡ đầu gối để xem có xương bên trong pho tượng hay không. Sau đó, các cụ trong làng đã dùng sơn ta để vá lại”.
Nhục thân của thiền sư Vũ Khắc Trường |
Thế nhưng, các cụ không hiểu rõ về nguyên tắc sơn tượng nên chỉ sơn một nước, khiến bên ngoài thì khô nhưng bên trong thì vẫn ướt. Vì vậy, chỉ một thời gian sau, vết nứt đã xuất hiện giữa nơi tiếp giáp của hai lớp sơn. Còn bên dưới lớp sơn tạm này, vi khuẩn đã đục khoét phần sơn ta làm thành các rãnh sâu chằng chịt. Từ vết nứt ở đầu gối, ôxy đã tràn vào phía trong tượng và chỉ sau vài chục năm đã làm nứt phần đầu và phần mặt.
Cũng trong khoảng thời gian này, PGS Nguyễn Lân Cường lại tiếp tục phát hiện ra nhục thân, đó là của thiền sư Vũ Khắc Trường. Ông Cường đã mừng đến rơi nước mắt bởi vì đây là những tài sản vô cùng quý hiếm không chỉ của Việt Nam mà còn là của cả nhân loại.
Thiền sư Vũ Khắc Trường là người thừa kế của thiền sư Vũ Khắc Minh. Thiền sư Vũ Khắc Trường tự là Đạo Tâm, là học trò, đồng thời ở ngoài đời là cháu gọi thiền sư Vũ Khắc Minh bằng chú. Thiền sư Vũ Khắc Trường có vị trí cao trong giới Phật giáo lúc bấy giờ.
Nhìn bề ngoài, tượng thiền sư Vũ Khắc Trường được sơn màu trắng toát và được vẽ môi, vẽ mắt cẩn thận nên nhìn kém tự nhiên hơn. Chính vì thế, trải qua nhiều thế kỷ, những Phật tử từ khắp nơi đến viếng chùa đều nghĩ rằng, đó chỉ là pho tượng gỗ cổ mà thôi.
Câu chuyện liên quan đến thiền sư Vũ Khắc Trường cũng hết sức ly kỳ. Khi di chuyển pho tượng từ trong am ra, người ta đã sơ ý làm vỡ một mảng to gần bằng bàn tay ở phía sau lưng. Mọi người kinh ngạc khi thấy di hài của thiền sư Vũ Khắc Trường có đến hai cột sống! Nhìn kỹ lại thì hóa ra đó là một ống trúc già dựa song song vào xương sống thật.
Không ai hiểu vì sao và ai là người đưa ống trúc vào trong thân thể vị thiền sư này. Một điểm lạ nữa là khi chụp X-quang bức tượng thì không thể chụp được, phim ra chỉ là một màu trắng toát. Những người chụp phim đã lạnh xương sống khi nhìn những tấm phim này.
Qua nhiều ngày tìm hiểu, lật giở lại lịch sử thì bí mật ấy đã được giải đáp. Pho tượng thiền sư Vũ Khắc Trường thực ra đã không còn nguyên vẹn mà đã trải qua một lần tu bổ, nhưng cũng đã hàng trăm năm rồi. Nhiều người kể rằng, năm 1914 đã xảy ra một trận lụt lớn làm ngập chùa. Pho tượng này để dưới nên bị ngâm nước lâu và bị mủn ra, phần thân dưới bị sụt xuống, cột sống bị đứt rời. Tuy nhiên, về sau này, một nhóm nhà khoa học Việt Nam sang Pháp vô tình đọc được một tài liệu liên quan đến sự việc này. Năm xảy ra trận lụt thực ra là năm 1893. Phương pháp phục chế bấy giờ chỉ đơn giản là xếp liền một ống trúc già song song với cột sống để làm giá đỡ. Sau đó, người ta đã tráng một lớp vôi bên ngoài tượng. Và chính lớp vôi đó đã gây ra hiện tượng phản quang nên xương cốt của pho tượng này không thể hiện lên khi đem chụp X-quang. Thế là bí mật về pho tượng đã bước đầu được minh giải.
Khi PGS Nguyễn Lân Cường tìm thấy thì pho tượng đã ở trong tình trạng bị hư hỏng nặng, lớp sơn ta ngoài bề mặt đã bị mủn nát, lộ ra phần bên trong. Bức tượng có một lỗ thủng lớn ở ngực, đầu gối và tay bị trật xương, chỉ cần một cú hích tay nhẹ là minh chứng lịch sử này sẽ đổ sụp.
Những đêm mất ngủ
Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, PGS Nguyễn Lân Cường đã bắt tay vào viết Dự án “Tu bổ, bảo quản tượng hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu”. Nhưng rồi, cuộc tranh luận về những phương án tu bổ đã kéo dài liền mấy năm. Ông Cường muốn đưa tượng về Hà Nội để phục chế vì đó là nơi có điều kiện làm việc tốt nhất. Thế nhưng, vị sư trụ trì chùa Đậu lại muốn làm ngay tại chùa. Mãi đến đầu năm 2003, dự án mới được phê duyệt và nhà chùa phải nhường ba gian phòng khách phía sau để nhóm chuyên gia, ngoài ông Cường còn có họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, hai nhà điêu khắc Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Ngọc Lâm và kỹ sư Nguyễn Mạnh Hà làm việc.
Ông Cường nhớ lại: “Thời điểm ấy, áp lực của chúng tôi là rất lớn, không thể để mắc sai lầm vì hai pho tượng này là độc bản, chỉ cần mắc một lỗi nhỏ là không thể sửa chữa được”.
Pho tượng lạ Quan âm sáu tay ở chùa Đậu |
Muốn gắn lại những vết nứt trên mặt, đầu gối trước hết phải diệt vi sinh vật và vi khuẩn bám trong các rãnh sâu và cả ở bên trong pho tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Ông Cường đã mời các nhà khoa học của Viện 69, Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh về tận chùa để cùng phối hợp nghiên cứu, tìm phương án diệt trừ các vi sinh vật, đưa thuốc diệt khuẩn vào trong pho tượng bằng phương pháp aeroson và tiến hành xông thuốc trong 72 giờ để thuốc ngấm hẳn vào trong pho tượng.
Một trong những vấn đề đặt ra là, nếu chỉ gắn các vết nứt bằng sơn ta thì sau khoảng 50 năm sẽ lại xuất hiện các vết nứt sinh ra giữ lớp sơn cũ 300 năm và lớp sơn mới. Họa sĩ Đào Ngọc Hân đã đưa ra một ý tưởng rất thuyết phục: mạnh dạn mở rộng thêm vết nứt mỗi bên khoảng 10mm và sâu 1mm rồi mới gia cố bằng vải màn trộn sơn sống. Biện pháp này sẽ đưa độ bền vững của pho tượng từ 50 năm lên hàng trăm năm.
Sau khi đã hàn kín các vết nứt, nhóm tu bổ quyết định đổ khuôn thạch cao pho tượng, tạo ra một pho tượng giống hệt đặt vào trong am. Pho tượng này phải giống hệt pho tượng cũ trước khi tu bổ, nghĩa là cũng có đầy đủ các vết nứt vỡ để những người tham quan biết được hình hài pho tượng gốc. Thế nhưng, nếu đổ khuôn thạch cao, nhiệt có thể “bóp vỡ” thi thể của thiền sư. Nhà điêu khắc Phạm Xuân Sinh đề xuất đổ khuôn từng phần: đầu, thân, cánh tay, cẳng tay, bàn tay… sau đó nối các phần lại với nhau, nhờ đó đã tạo được một bức tượng khác giống hệt bức tượng gốc mà lại đảm bảo tuyệt đối an toàn.
Bằng kỹ thuật truyền thống như bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất, cả nhóm đã tiến hành sơn 14 lớp và thếp vàng đối với tượng gốc thiền sư Vũ Khắc Minh. Sau mỗi lớp sơn lại tiến hành mài khiến các lớp sơn đan xen, xoắn quyện với nhau. Đến lớp cuối khi phủ quang dầu xong, cả nhóm phát hiện bề mặt pho tượng không nhẵn. Những hạt bụi lơ lửng trong không trung đã bám vào bề mặt tượng. Thế là cả nhóm phải tiến hành khâu này trong… màn.
Khám rồng mạ vàng để đặt tượng thiền sư Vũ Khắc Trường |
Pho tượng của thiền sư Vũ Khắc Trường vốn được dựng lại năm 1893 nên có nhiều chi tiết sai lệch về mặt giải phẫu. Ban đầu, ông Cường có ý dỡ ra, thu thập xương cốt rồi dựa theo xương sọ để phục nguyên lại đúng với vẻ mặt ban đầu của thiền sư. Thế nhưng, nhà chùa và Sở Văn hóa Thông tin không tán thành vì cho rằng, nhân dân địa phương hơn trăm năm nay đã in đậm trong tâm khảm hình ảnh của cụ Nguyễn Khắc Trường hiện tại rồi. Dù phục dựng pho tượng mới có giống với hình hài thật của cụ, họ cũng sẽ không chấp nhận. Ông Cường đành phải làm theo ý mọi người.
Vào một buổi chiều hè, ông Cường ngồi ngắm pho tượng thiền sư Vũ Khắc Trường và cứ suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao vị thiền sư này có cánh tay dài thế? Không cưỡng nổi sự tò mò, ông Cường bí mật khoét bốn ô nhỏ ở vùng gần đầu xương cánh tay và khửu tay. Và sự liều lĩnh này của ông đã có kết quả. Trong hố khoét của cánh tay phải ở phía trên gần vai, ông phát hiện ra xương này đã bị đặt lộn ngược, bên cạnh đó là xương mác của xương ống chân được ghép vào xương cánh tay cũng bị lộn đầu. Đây chính là nguyên nhân làm cánh tay của thiền sư dài quá cỡ. Có lẽ, trong lần tu bổ khi xưa, các con cháu của thiền sư thấy phần cẳng tay có hai xương nên cũng nghĩ rằng cánh tay cũng phải có hai xương.
Một nhiệm vụ quan trọng trong dự án này là vấn đề bảo quản hai pho tượng sau khi đã tu bổ. Một vật thể trong môi trường không khí dù là vô cơ hay hữu cơ thì đều sẽ bị hủy hoại do tác động của ôxy. Sự hủy hoại vật thể để trong môi trường không khí nhanh hay chậm, nhiều hay ít cũng phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm của môi trường. Theo quy luật, khi nhiệt độ tăng lên 100C thì tốc độ hủy hoại tăng hai lần và độ ẩm ướt của môi trường tăng lên 10% thì tốc độ hủy hoại cũng tăng gấp đôi. Vì vậy, nguyên lý trong bảo quản là làm thế nào để hạn chế đến mức tối đa tác động của ôxy đến vật thể bảo quản.
Lúc đầu, nhóm phục chế định dùng máy hút ẩm munter, hoạt động theo phương pháp thổi khí để bảo quản hai pho tượng cổ. Tuy nhiên, thiết bị này tương đối đắt tiền và vấn đề cốt lõi là máy này chạy phát tiếng động lớn, không hợp với không gian yên tĩnh trong chùa. Trong cuộc họp tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, các nhà khoa học của Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, Viện 69 Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thống nhất thay thiết bị munter bằng việc sử dụng môi trường khí trơ có khí nitơ. Phương pháp này vừa tiết kiệm được kinh phí, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương.
Hợp tác xã công nghiệp Từ Vân, Đông Anh đã đảm nhận việc làm hai khám bằng gỗ mít. Các phần của khám được liên kết với nhau bằng mộng và đinh tre. Nhà máy kính Đáp Cầu đúc kính dày 1cm và lắp ráp thành một hộp kính kín. Đúng 9 giờ 45 ngày 3/11/2003, công đoạn cuối cùng của Dự án tu bổ, bảo quản di hài của hai vị thiền sư chùa Đậu là việc bơm khí ni tơ vào hai hộp kính đặt trong khám đã hoàn tất, chấm dứt gần 200 ngày miệt mài lao động của những người thực hiện dự án. Sáng 29/11/2003, tại Lễ khánh thành, một cụ già tóc bạc phơ tìm đến xiết chặt tay ông Cường, mắt rớm lệ: “Cảm ơn các chú, vì cái tâm sáng nên các chú mới làm được chuyện này. Bây giờ thì tôi đã yên tâm nhắm mắt xuôi tay, vì cụ Minh, cụ Trường sẽ được sống với hậu thế vài trăm năm nữa…”.
Tuy nhiên, trong đầu PGS Nguyễn Lân Cường vẫn ong ong câu hỏi: Bằng cách thức nào, năng lượng nào mà những vị thiền sư có thể ướp xác mình đến độ tinh xảo và hoàn hảo đến như vậy? Bởi vì, người Ai Cập cổ đại đã phải mò mẫm rất lâu trước khi tìm thấy một công thức ướp xác tốt nhất. Sáu nghìn năm trước Công nguyên, trước khi chôn người chết, người Ai Cập đã khoét những lỗ nhỏ trên xa mạc rồi đem dựng xác người vào đó để cát nóng sấy khô. Mãi đến khoảng năm 2650 trước Công nguyên, kỹ thuật moi ruột ướp xác mới được thực hiện ở đây. Đầu tiên, họ rạch bụng người chết qua một vết cắt khoảng 8cm để lấy nội tạng ra, duy chỉ có quả tim là được giữ lại. Ruột, dạ dày và gan thì được bỏ vào các bình chứa. Người ta đục xương lá mía đưa rượu chà là vào trong não rồi dùng một thanh sắt nhỏ có móc ngoáy mạnh trong đầu. Sau khi lật úp xuống, não sẽ chảy ra ngoài cùng rượu và vùng sọ rỗng được thay bằng nhựa cây. Thân người chết được lau khô rồi nhét đầy hương liệu với mạt cưa. Cuối cùng, người ta quấn xác chết bằng vải lanh, để vào quan tài rồi mới đem vào hầm mộ.
Nhục thân các vị thiền sư chùa Đậu vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí nội tạng vẫn còn nguyên trong cơ thể. Vậy tại sao những nhục thân này không bị vi sinh vật ăn mòn và hủy hoại? Đã có nhiều bậc cao tăng cho rằng, những thiền sư này đã luyện đến mức tối thượng, dùng “lửa tam muội” để biến mình thành bất tử.
PGS Nguyễn Lân Cường cho rằng, ông là “hướng dẫn viên du lịch nghiệp dư cho hàng trăm đoàn khách trong và ngoài nước đến tham quan chùa Đậu, huyện Thường Tín (Hà Nội). Ông không bao giờ quên câu nói của GS.TS István Kiszely, nhà nhân học nổi tiếng người Hunggari: “Bạn đã cho tôi được biết đến một điều kỳ diệu về nền văn hóa thật đa dạng của Việt Nam. Tôi hy vọng sẽ còn tìm được những thiền sư khác nữa”. Điều mong muốn của vị giáo sư nước ngoài ấy đã trở thành sự thật, khi Việt Nam tiếp tục tu bổ và nghiên cứu tiếp hai nhục thân khác ở Phật Tích và Tiêu Sơn. Ông Cường tin tưởng chắc chắn rằng, sẽ còn nhục thân của nhiều thiền sư khác còn chưa xuất lộ, vì ngôi chùa nào ở Việt Nam mà chẳng có tháp của các vị trụ trì? |
3. Lửa tam muội bí truyền
Bí ẩn trong am cổ
Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn. Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu hành, giảng đạo và dạy dỗ Lý Công Uẩn, người khai sinh Thăng Long – Hà Nội.
Ai đã đến chùa Tiêu đều không quên ni sư Đàm Chính, người có vẻ mặt đôn hậu và đôi mắt hiền hòa. Hơn 60 năm về trước, khi là một thiếu nữ 17 tuổi đã về tu nghiệp ở chùa. Năm 1971, cái năm mưa liên miên, cây cối mọc nhiều trong vườn tháp, khiến nhà chùa phải bắc thang lên cắt rễ cây ăn sâu vào tháp. Vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên có ghi tên và năm tịch của người trong tháp. Qua khe nứt, ni sư kinh hãi nhận thấy một người ngồi thiền trong tháp, nhưng ni sư bịt chặt kẽ hở và giữ kín chuyện, mãi tới năm 1996 mới thưa lại với Hòa thượng Thích Thanh Từ – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, khi tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư ngỏ lời nhờ Hòa thượng giúp đỡ và người của Thiền viện Trúc Lâm ngỏ lời với PGS Nguyễn Lân Cường.
Lần theo văn tự trên viên gạch đính trên tháp, được biết rằng, người ngồi trong tháp có đạo hiệu là Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí; tháp được kính cẩn hoàn thành vào ngày lành mùa Xuân niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723) triều Lê Dục Tông. Thân thế sự nghiệp của Thiền sư Như Trí đến nay chưa tìm thấy sử sách, chỉ xuất hiện trong một vài tác phẩm văn Nôm chưa có dịp kiểm chứng. Những tư liệu đó cho biết, ngài có cùng một số huynh đệ có cùng chữ Như, phụ giúp Thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn sót lại trong nhân gian như Khóa Hư Lục, Tam Tổ Trúc Lâm, Kiến Tánh Thành Phật và đặc biệt là năm 1715 in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục – một bộ sách rất có giá trị về văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Theo Thượng tọa Thích Thông Phương – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do sư tổ Trúc Lâm – vua Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay ở đây còn tháp đá tôn thờ Thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang”. Thượng tọa Thích Thông Phương cũng nhận xét rằng, Thiền sư Như Trí đã an nhiên trước sinh tử, thị tịch trong tư thế khiết già và để lại nhục thân cho đến ngày nay, càng làm sáng tỏ dòng Thiền Trúc Lâm trên đất Việt và cho thấy chư Tổ người Việt tu hành rất có kết quả cao sâu, đúng với chân lý bình đẳng mà Phật đã dạy.
Ngày 5/3/2003, nhục thân Thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp, trong tư thế bán già, tay kết ấn tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay, nhiều phần hư hỏng nặng, có nhiều vỏ trứng của các loài côn trùng hoặc bò sát nằm rải rác quanh bệ sen làm bằng gốm non màu đỏ.
Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc, nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân Ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Khi PGS Cường tu bổ pho tượng táng này là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư. Ông khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”.
Ông Cường và các nhà khoa học lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích bằng phương pháp phổ nhiễu xạ tia X, kết quả cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng Thiền sư, tức là thi thể Thiền sư được ướp theo một cách thức riêng, không hề giống với cách ướp xác của người Ai Cập.
Việc tu bổ pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn thành, Ngài đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục ngồi “kiết già” trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản cẩn thận của khoa học hiện đại.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra với các nhà khoa học là, sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn?
Yếu quyết tự ướp xácTheo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị thiêu hủy sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi. Xá lợi ấy nhiều khi cũng rất đặc biệt, ví như cái lưỡi của ngày Duy Ca Mật, một vị thuyết pháp người Ấn Độ, hay như quả tim của vị danh tăng Thích Quảng Đức để lại do tự thiêu để phản đối chế độ Mỹ – ngụy ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại thì, đức Phật sau khi viên tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc mà ngay cả nhiệt độ rất cao cũng không thiêu hủy được.
Đưa nhục thân thiền sư Như Trí vào khám rồng |
Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông. Tai họ có thể nghe được âm thanh cực nhỏ hoặc từ rất xa; mắt nhìn được xa những vật rất nhỏ, tâm có thể đọc được ý nghĩ của người khác. Tuy nhiên, các gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người mình đến chỗ an nhiên, thanh tịnh. Để dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rõ… nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì quá khứ hay hiện tại sẽ không còn ngăn cách nữa. Tất cả những yếu quyết để tự ướp xác này là một phương pháp bí truyền có tên là “lửa tam muội”.
Tương truyền, lửa tam muội nghĩa là một ngọn lửa huyền bí, là thứ năng lượng đặc biệt của con người. Người ta dùng hô hấp để kích động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Khi đã nhập định, người ngồi thiền cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà người ta hay gọi là “sống trong tiên cảnh”.
Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được. Thầy phải là người đã luyện thành công lửa tam muội mới có thể chỉ dạy được, để biết rõ các nguy hiểm trên đường tập luyện, vì một sai lầm có thể đưa đến điên loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc phục được những khó khăn bước đầu.
Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái gì đó cần gạn lọc để tìm ra tinh hoa ở bên trong.
Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng, thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Sau khi tập ngồi thuần thục, chân tay hết nhức mỏi thì bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân, bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và ngón áp út thu vào lòng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó tập trung tư tưởng vào hơi thở. Khi thở ra, họ tưởng tượng mình đang xả bỏ các tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, hận thù. Khi hít vào, họ tưởng tượng mình đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh. Tiếp theo, họ hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn thả lỏng, tâm trí dứt hết các nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại.
Viên gạch đính trên tháp chứa nhục thân Ngài ghi rõ: Nhục thân ở trong tháp có tên là Ma ha Đại Tỳ kheo Như Trí (theo bản dịch của PGS.TS Đỗ Thị Hảo) |
Nếu đạt yêu cầu, môn sinh được chấp nhận cho làm lễ điểm đạo truyền pháp. Họ sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng. Và từ đó, họ không ngồi gần lửa, tìm đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rõ: “Không được tập luyện trong nhà cửa, xóm làng, vì không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống cô đơn ở nơi hoang vu, bỏ hết phiền não cõi trần.
Sau khi hợp nhất khí huyết, môn sinh tưởng tượng có một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống sẽ kích thích quả cầu này tỏa nhiệt mạnh mẽ.
Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đã luyện thành thục cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự được tâm, thì vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh mạch, khiến môn sinh có thể điên loạn và tử vong.
Nếu tâm không còn vọng động, môn sinh có thể dùng tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch.
Đỉnh cao của phương pháp luyện lửa tam muội là tự thiêu đốt đi lớp mỡ trong cơ thể mình và chỉ để lại những phần bất hoại với thời gian. Khi những thiền sư đốt đến giọt năng lượng cuối cùng thì cũng là lúc họ vĩnh biệt cõi trần. Chính vì thế, nhục thân của họ không bị phân hủy và trở nên bất tử.
Người đời vẫn thường kể lại câu chuyện, trước khi qua đời, thiền sư Vũ Khắc Minh đã chuẩn bị sẵn cho mình một am nhỏ trên vách núi. Khi bước vào trong am, thiền sư dặn dò các đệ tử của mình rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta mà bả lên thi thể”.
Nhiều chuyên gia cho rằng, thiền sư Vũ Khắc Minh đã luyện được lửa tam muội tới mức tối thượng và dùng nó để bước vào cõi hư vô, bất tử. Như lời hòa thượng Thích Thanh Tứ nói lúc sinh thời thì, đây là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của tâm để đạt đến sự giác ngộ viên mãn.
Năng lượng con người là một thế giới còn ẩn chứa vô vàn những bí mật chưa được khám phá. Nhục thân của các vị thiền sư Việt có lẽ đã gợi mở rằng, con người sở hữu một nguồn năng lượng vô hạn và khát vọng bất tử đã tồn tại trong nhiều thế kỷ qua.
Vũ Minh TiếnTheo: PetroTimes
0 comments:
Post a Comment