I. Thuật ngữ về Tuệ
Trong ngôn ngữ hàng ngày, ta thường nói đến từ “trí tuệ” và thường hiểu đơn giản trí tuệ là hiểu biết (knowing) và kiến thức (knowledge). Trong Phật giáo cũng dùng từ Trí Tuệ. Nhưng Trí hay Tuệ trong Đạo Phật có nghĩa sâu hơn, bao hàm sự thấu hiểu có tính chân lý và tính trực tiếp. Tiếng Việt không có từ nào khác hơn và thích hợp hơn để dịch chữ Tuệ trong kinh điển đạo Phật, mặc dù nó có nghĩa khác hơn. Ngay cả tiếng Anh cũng vậy, chỉ tạm dùng chữ “wisdom” hoặc “insight” hoặc “intuition” để diễn tả. Tóm lại, ta qui ước định nghĩa từ “Trí Tuệ” của Đạo Phật qua một số thuộc tính của nó, ví dụ: sự thấu hiểu, trực tiếp, đúng và hợp chân lý, có thể phát triển theo thời gian và sự tu tập v.v…. Trí Tuệ có nguồn cội giống như kiến thức, nhưng khác với kiến thức, nó là một năng lực hiểu biết trực tiếp không thông qua ngôn ngữ, khái niệm hay lý luận. Trong triết học Tây Phương, theo cuốn Metaphysics, Aristotle định nghĩa tuệ (wisdom) như là một sự hiểu biết về cái nguyên ủy: Tại sao sự vật lại xuất hiện một cách đặc biệt như vậy?
Trong kinh điển Đạo Phật, có ba từ thường được đề cập đến có nghĩa rất gần nhau, đó là: Tuệ, Trí và Thức.
Tuệ (Pali : paññā….. Sanskrit : prajñā)
Trí (Pali : ñāṇaṃ …... Sanskrit: jñāna )
Thức (Pali: Viññāna)….Sanskrit: vijñāna)
Trong Phật Giáo phát triển, chữ Tuệ thường được gọi là “huệ” vì tiếng Quan Thoại phát âm là “huey”cũng gần giống như “huệ” vậy. Huệ và Trí là những danh từ thường gặp và có ý nghĩa gần giống như nhau. Ngoài ra, chữ prajñā trong kinh điển Phật giáo phát triển, cũng thường được dịch thẳng ra là “Bát Nhã ”.
Trong giáo pháp nguyên thủy: Tuệ là sự nhận biết, còn Trí là Tuệ đã được nhận biết rõ ràng và trọn vẹn. Phân Tích Đạo (Patisambhidāmagga), bộ kinh thứ tám trong Tiểu bộ kinh, phân biệt hai khái niệm rất gần nhau là TRÍ và TUỆ bằng những cụm từ thường luôn được lập lại như sau:
- “Taṃ ñātaṭṭhena ñāṇaṃ, pajānanaṭṭhena paññā.”
Điều ấy theo ý nghĩa đã được biết (thì gọi) là TRÍ (ñāṇaṃ), theo ý nghĩa nhận biết (thì gọi) là TUỆ (paññā).”
Hoặc:
- “Taṃpajānanā paññā sutamaye ñāṇan” ti.”
TUỆ do sự nhận biết điều ấy là TRÍ về yếu tố tạo thành điều đã được nghe.
Như vậy, có nghĩa là hai khái niệm Trí (ñāṇaṃ) và Tuệ (paññā) rất gần nhau, có thể xem chúng như có ý nghĩa giống nhau. Trí được xem như là Tuệ đã thành tựu viên mãn. Hoặc ngược lại khi Tuệ viên mãn thì gọi là Trí. Thường thì ta có thể dùng Trí hoặc Tuệ mà không cần phân biệt.
Trong khi Tuệ của đời thường (sự hiểu biết) nhằm mục đích phục vụ cuộc sống thế gian, thì Tuệ trong Đạo Phật nhằm mục đích giúp cho con người vượt thoát khỏi thế gian và những cái hữu hạn của nó. Tuệ, trong Đạo Phật, nhằm giúp người tu vượt lên cõi nhân gian, vươn tới những cõi giới (planes of existence), cao hơn, hoặc thậm chí vượt qua tất cả các cõi giới để đạt được tự do tuyệt đối!
II. Ý nghĩa của Tuệ
1. Ý nghĩa của tuệ trong đời thường:
Chúng ta cũng vẫn dùng chữ “Tuệ” trong đời thường để chỉ một mức độ nào đó vượt hơn từ “hiểu biết”, ví dụ người trí tuệ, sự thông tuệ. Chữ wisdom hay insight cũng được dùng trong khối tiếng Anh với ý nghĩa cao hơn chữ Knowledge. Kiến thức thì cao hơn Thông tin, và Dữ liệu. Xếp thứ tự từ mức độ thấp lên cao :
Dữ liệu (Data) --> Thông tin (Information) --> Kiến thức (Knowledge) -->Tuệ (Wisdom).
Từ những dữ liệu (chưa có phân loại và định hướng), ta thu thập được thông tin (dữ liệu có phân loại và định hướng). Thông tin phát triển thành kiến thức, chú ý kiến thức luôn có yếu tố niềm tin (belief) đi kèm, tức yếu tố chủ quan. Kiến thức phát triển sâu rộng, phù hợp với chân lý khoa học, tạo thành tuệ (wisdom). Mặc dù Tuệ, wisdom của cõi con người có tên gọi giống như Tuệ trong Đạo Phật nhưng mục đích của hai loại tuệ hoàn toàn khác nhau. Tuệ, wisdom của thế gian nhằm phục vụ thế gian, phục vụ các thế giới và hiện sinh hữu hạn, còn Tuệ trong Đạo Phật nhằm mục đích đạt giải thoát tối thượng, nghĩa là vượt ra khỏi các thế giới (planes of existence).
2. Ý nghĩa của tuệ trong Đạo Phật:
Tuệ và Trí trong giáo pháp nguyên thủy là phương tiện dùng để đạt tới giải thoát. Chính vì thế mà ta cũng thường nghe rằng Đạo Phật là Đạo của Trí Tuệ. Kinh điển còn lưu lại luôn nói đến sự tu tập các tuệ để thực hiện giác ngộ. Đạo Phật nguyên thủy là đạo của trí tuệ tự thân, sự giác ngộ trong Đạo Phật không dựa vào những năng lực thần bí đến từ bên ngoài. Mỗi con người đều có khả năng tu tập, rèn luyện tâm trí phàm phu của mình trở thành trí tuệ giải thoát. Hay nói cách khác, Trí Tuệ của các vị Thánh cũng bắt đầu từ trí óc phàm phu. Tất cả chỉ khác nhau ở mức độ phát triển.
3. Tuệ, Wisdom, paññā, prajñā là những từ đồng nghĩa.
Vậy “Tuệ” trong giáo pháp nguyên thủy cũng chính là “Bát Nhã” (Trí Bát Nhã) trong kinh văn của Phật Giáo phát triển. Tuy nhiên qua sự phát triển, từ Hán-Việt “Bát Nhã” luôn mang lại cảm giác cao siêu, linh thiêng, thần bí, khó hiểu và đã làm bối rối nhiều người không ít. Ví dụ một đoạn giảng về bát nhã như sau:
“Bát-nhã vô tri vô sở bất tri, nghĩa là Bát-nhã không biết mà không chỗ nào chẳng biết. Không biết tức Bát-nhã đối với cảnh không khởi vọng thức phân biệt. Không chỗ nào chẳng biết vì Bát-nhã là trí tuệ hằng sáng hằng giác dụ như gương sáng, tất cả cảnh vật hoặc người qua lại đều hiện rõ ràng không thiếu sót. Biết mà không khởi vọng thức phân biệt là cái biết của Tâm…”.
Khi prajñā paramitta được dịch âm là Bát Nhã Ba La Mật Đa, thì khái niệm tuệ giải thoát được thuyết giảng như là một phạm trù không thể nói ra được (cõi vô ngôn), không thể suy nghĩ giải bày được (bất khả tư nghị) v.v… ví dụ, một đoạn kinh văn của Phật giáo phát triển như sau:
“Lúc bấy giờ Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật rất sâu nầy vì đại sự mà phát khởi, vì bất khả tư nghì sự, vì bất khả xưng sự, vì bất khả lượng sự, vô đẳng đẳng sự mà phát khởi”.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Bát nhã ba la mật rất sâu nầy vì bất khả tư nghì sự đến vì vô đẳng đẳng sự mà phát khởi,...”.
Đọc xong thực tình chỉ biết gãi đầu! Người tu luôn mất tự tin, thấy mình yếu đuối khi tiếp xúc với khái niệm quá thần bí như vậy. Khi đọc các luận giải về Bát Nhã, ta thấy quá nhiều những giải thích mang tính bất lực trước nội dung của chữ Bát Nhã, mà sự thực thì Bát Nhã chỉ là prajñā, tức paññā, tức tuệ, tức wisdom. Sự thực bát nhã không thể hiểu được, không thể nói được hay đó chỉ là cái trick của người giảng đối với người nghe! Sự thực như thế nào? Thời Đức Phật còn tại thế, có phải thực sự Ngài và các bậc Thánh tăng đã hoàn toàn không có khả năng diễn đạt về cái gọi là “Bát Nhã” hay không? Nếu Bát nhã tức Tuệ, một yếu tố chính để giác ngộ, mà không thể trình bày được thì làm sao giáo pháp có thể được truyền lại cho nhân loại! Hãy chú ý đến sự vô lý này khi chúng ta đọc một số kinh điển được cho là “kinh Phật”!
III. Tu tập tuệ là phương pháp đặc thù riêng của Đạo Phật.
Một tâm phàm phu nếu được trau dồi tu tập đúng cách sẽ phát triển tuệ. Hay nói cách khác các tuệ phi thường đều có nguồn gốc từ tâm trí bình thường. Tuệ không mang tính thần bí. Các tôn giáo, nhất là các tôn giáo thuộc văn minh Ấn Độ, thường thực hiện giải thoát tâm linh qua các tuệ phát sinh từ các loại thiền. Có nhiều loại thiền, ví dụ có loại dùng sự tập trung gọi là thiền định (Samādhi), có loại dùng sự quán tưởng trên những đối tượng hoặc những biểu tượng (meditation on visualization), có loại dùng sự khích động các năng lượng bí mật của cơ thể (Kundalini), có loại dùng năng lực của lòng tin (Bhakti) hoặc sự sùng bái (worship) v.v…Riêng đạo Phật, ngoài hai giai đoạn chuẩn bị là Giới và Định, sự tu tập để giải thoát đặt cơ sở trên sự phát triển các Tuệ, tức sự hiểu biết thâm sâu trực tiếp. Đây là điều rất đặc biệt. Đạo Phật là đạo của trí tuệ của chính người tu, không phải là lòng tin hay sự sùng bái trong tín ngưỡng. Giáo pháp nguyên Thủy của Đức Phật không có mối liên quan với những năng lực thần bí bên ngoài!
Các loại thiền đều giúp trí óc (mind) vượt qua khả năng bình thường của nó để đạt tới những tuệ nhất định. Ví dụ, các đạo sĩ Ấn Độ giáo thường nói đến sự hòa nhập với vũ trụ to lớn chung quanh (một là tất cả) và cũng thấy cả vũ trụ to lớn chung quanh là chính mình (tất cả là một). Đó là một loại tuệ gọi là “Tâm bất nhị”, vốn có từ lâu trong các loại thiền định của Ấn Độ giáo. Bên cạnh đó bằng các kỹ thuật tu luyện phát triển từ thiền định, các đạo sĩ cũng tạo ra những tuệ đặc biệt phi thường gọi là thần thông, như nghe thật xa, nhìn thật xa, xúc chạm thật xa, hiểu tâm ý người khác, biết được các kiếp trước của mình, v.v…tất cả các tuệ do thiền định đó góp phần vào việc giải thoát từ cõi người đến các cõi thiên cao hơn, tốt đẹp hơn (theo quan điểm Ấn độ giáo). Từ trí óc bình thường đến những trạng thái thăng hoa của thiền định, rõ ràng con người đã vượt một đoạn đường dài trong tiến hóa tâm linh. Đa số các tôn giáo, giáo phái Bà La Môn thời đó cũng như thời nay, đều hài lòng với các tuệ thế gian và các thần thông do các loại thiền định. Trước thời Đức Phật, không ai biết sự giải thoát trong các cõi trời tốt đẹp đó cũng chỉ là hữu hạn, không phải là tuyệt đối, nghĩa là cũng vô thường, có sinh, có tử, có thọ mạng. Theo cách nhìn của Đạo Phật, các tuệ giải thoát này vẫn là các tuệ thuộc thế gian (mundane), nghĩa là không đủ để giải thoát ra ngoài ba cõi giới (triloka). Khi sa môn Gautama đắc chứng các tầng thiền định (samāpatti) với các tuệ của Định và với các thần thông, ngài phát hiện ra rằng sự giải thoát đến các thiên đàng như thế cũng chưa thực sự là một giải thoát tuyệt đối. Nhờ sự hoài nghi can đảm đó, sa môn Gautama từ bỏ các vị thày để tiếp tục tu tập. Cuối cùng, bằng thiền quán (Vipassanā), Ngài thành công và đạt đến Niết Bàn, một giải thoát tuyệt đối vượt khỏi các tầng trời trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Sự phát hiện ra các tuệ xuất thế gian tức tuệ của bốn đạo và bốn quả (Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai và A La Hán) đã thay đổi được cả nền văn minh và thân phận loài người. Bằng trí tuệ đặc biệt phi thường, Đức Phật đã chứng thực được con người có khả năng chấm dứt luân hồi sinh tử, thoát ra khỏi những trạng thái hiện hữu vốn luôn có giới hạn và luôn có khổ đau. Phương cách thiền để tạo ra tuệ giác (thiền tuệ, Vipassanā) của Ngài đã trở thành một pháp duy nhất trên cõi người, có thể giúp con người đạt đến một giải thoát cao hơn các thiên đàng, vượt qua hẳn cái giải thoát của các vị Bà La Môn đương thời. Ngay từ đây, chúng ta phải cẩn thận với từ “Giác ngộ” hoặc “Giải thoát”. Có rất nhiều kiểu giác ngộ khác nhau và cũng có rất nhiều kiểu giải thoát khác nhau. Phải căn cứ vào nội dung của giác ngộ hay giải thoát mới biết nó có thuộc về Đạo Phật hay không thuộc về Đạo Phật. Ví dụ pháp môn nào giúp con người vượt ra khỏi thế gian, vượt qua các tầng trời thì nó chính là Đạo Phật. Còn ngược lại, pháp môn nào ôm giữ và ca ngợi cái tươi đẹp đầy ảo tưởng của thế gian, thì đó không phải là Đạo Phật. Đạo Phật giúp con người đi ra khỏi cuộc đời và ra khỏi cả những tồn tại trên các cõi trời. Đây là ý nghĩa thực của Đạo Phật. Sự giải thoát của Đạo Phật hoàn toàn đi ngược lại bản năng con người và vì thế, chỉ dành riêng cho những cá thể đã trưởng thành qua tiến hóa cũng như đã hiểu được giáo pháp vĩ đại này. Không thể có một loại “Đạo Phật đi vào cuộc đời”. Nếu có những giáo phái chủ trương thỏng tay vào chợ, đi vào cuộc đời, cải tạo thế giới.v.v.. thì đó không phải là Đạo Phật. Chính cái cứu cánh của Đạo Phật mới xác định đó là Đạo Phật hay không phải là Đạo Phật. Níp Bàn (nibbana) là một cứu cánh có nội dung riêng của Đạo Phật nguyên thủy. Những tuệ cần có để đạt tới Níp Bàn là những tuệ riêng chỉ có trong sự tu tập trong giáo pháp lúc còn nguyên thủy.
Nên nhắc lại rằng chỉ có chánh pháp của Đức Phật Gautama mới liệt kê và mô tả những Tuệ xuất thế gian trong quá trình tu chứng, tức những tuệ đặc biệt phi thường giúp vượt qua cả tam giới [11], chấm dứt luân hồi sinh tử giúp người tu an trú trong trạng thái Níp Bàn. Trong thực tế sinh hoạt tôn giáo, rất khó phân biệt tôn giáo nào thực hiện loại giải thoát nào, và có thực sự đúng như nó tuyên bố như vậy không! Hiện nay có rất nhiều giáo phái tự cho rằng có thể giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, nhưng thực tế những giáo phái đó hoàn toàn chỉ tu tập thiền định, không thể nêu lên các tuệ và không thể trình bày phương pháp tu tập tuệ khi thực hiện giải thoát! Một giáo phái hoặc pháp môn không nêu lên được nguyên lý của sự tu tập, không mô tả được những tuệ giải thoát, chi tiết đến từng sát-na tâm, thì khó có thể so sánh với phương pháp tu tập cũng như cứu cánh giải thoát của Đạo Phật dạy bởi Đức Phật Gautama.
IV. Tuệ trong ý nghĩa của tiến hóa tâm linh
Sự tiến hóa của ý thức tạo ra nền văn minh của vật chất và các giá trị cho thế giới con người. Đồng thời tiến hóa Ý thức cũng đưa đến phát triển tâm linh, tôn giáo và những tuệ cho giải thoát trong đạo Phật.
1. Tuệ của khoa học và tuệ giải thoát
Tuệ là ý thức cao nhất của tâm trí con người. Văn minh nhân loại, nền khoa học kỹ thuật đã hình thành do tuệ của con người trần thế. Mặc dù không có sự khác biệt về hình thức chữ tuệ trong đời thường và trong Đạo Phật. Nhưng về nội dung, ta có thể phân biệt những loại tuệ thuộc thế gian như trong khoa học kĩ thuật, cái đóng góp cho sự tồn tại và phát triển loài người, với những loại tuệ của Đạo Phật dùng để phát triển tâm linh với mục đích đạt đến giải thoát. Một người dù đi theo con đường khoa học hay tu tập tâm linh cũng bắt đầu bằng sự hiểu biết bằng trí óc. Xét về nguồn gốc, dù là hai hướng phát triển có hai mục đích khác nhau nhưng tất cả hai loại tuệ đó cùng có nguồn gốc từ sự hiểu biết của ý thức trí-óc (mind-consciousness). Ở đây, nếu tiếp tục tìm hiểu về quá khứ, tức nguồn cội của ý thức, thì chúng ta rất dễ nhìn thấy toàn diện sự tiến hóa của loài người, trong đó bao gồm tiến hóa tâm linh.
2. Từ không đến có
Khoa học đã cho thấy cái phức tạp nhất có thể bắt đầu từ cái đơn giản nhất. Chiếc computer trước mặt bạn có đủ các thứ văn bản, hình ảnh và âm thanh. Tuy nhiên khởi đầu của nó chỉ là một khái niệm về “Bit”. Một “Bit”có một trong hai giá trị zero và một (0 không có dòng điện đi qua, 1 có dòng điện đi qua). Chỉ vậy, từ hai giá trị đơn giản, mà bây giờ công nghệ thông tin và máy tính đã phát triển lớn mạnh đến như thế nào! Tất cả “thần thông” mà loài người hôm nay có được như liên lạc, viễn thông, trao đổi tài liệu v.v… thực sự chỉ bắt đầu với hai giá trị “không” và “có”. Thuyết Big Bang cũng giả thuyết rằng vũ trụ mênh mông được thành lập từ hư không, từ một vụ nổ đầu tiên mà tất cả thiên thể trong vũ trụ đã thành hình. Big Bang càng ngày càng được chứng minh là đúng. Nghĩa là hư không có thể biến thành tất cả! Riêng trên bề mặt trái đất, con người xuất hiện như thế nào vẫn còn đang tranh cãi. Có phải sinh vật trên địa cầu đã xuất hiện do tiến hóa? Bắt đầu từ một con amib đơn bào đầu tiên trong biển nguyên thủy? Giả thuyết về sự tiến hóa sinh vật, từ đơn bào đến đa bào, đến các lớp hữu nhũ, rồi đến loài người, gây cảm giác “hạ giá” con người đối với quan điểm của các tôn giáo thần khải như Kito, Hồi và Do Thái. Nhưng rất nhiều người vẫn tin rằng một ngày gần đây điều này sẽ được chứng minh. Hiện giờ, vẫn còn một vài hóa thạch “mắt xích”của tiến hóa sinh vật chưa được tìm thấy. Đối với các tôn giáo thần khải, thuyết tiến hóa rõ ràng không được chấp nhận vì Thánh kinh nói loài người do chúa đã tạo ra. Nhưng đối với Phật giáo và triết học Ấn độ, thuyết tiến hóa dường như không có mâu thuẫn gì. Vũ trụ quan của Đạo Phật với sáu cõi luân hồi từ những hiện sinh cõi thấp đến cõi cao. Tiến hóa trong Đạo Phật có thể từ thấp lên cao hay từ cao xuống thấp, khác với thuyết Darwin, tiến hóa chỉ có một chiều. Đề cập đến sự tiến hóa để thấy giữa các loài sinh vật, con người và với thần thánh thực sự không có biên giới. Luật tiến hóa tự nhiên đã thúc đẩy sinh vật không có ý thức trở thành con người có ý thức. Vì vậy, luật tiến hóa tự nhiên cũng sẽ thúc đẩy con người ý thức đến một dạng tồn tại cao hơn!
3. Tiến hóa sinh vật bao gồm tiến hóa tâm linh
Từ một sinh vật đơn bào trong biển nguyên thủy, đến động vật hữu nhũ, đến con người đứng thẳng (Homo Erectus) rồi đến con người có ý thức (Homo Sapiens), quá trình đó đã là một mức tiến hóa phi thường. Nhưng dĩ nhiên, sự tiến hóa không dừng lại. Ý thức con người vẫn tiếp tục nổ lực thực hiện sự tiến hóa không ngừng nghỉ, để vượt qua chính nó, vượt qua cái thân phận hữu hạn của Homo Sapiens vươn đến một tồn tại tốt đẹp hơn! Nói theo một số các tôn giáo là vượt đến những thiên đàng gần gũi với Thượng Đế. Nói theo quan điểm Đạo Phật là vượt thoát mọi luân hồi sinh tử, an trú trong tịch tĩnh. Các vị Phật, các vị Thánh xuất hiện đây đó trong chiều dài lịch sử, các giáo thuyết khác nhau lần lượt ra đời với mức độ cao thấp, sai biệt, khác nhau. Tất cả đều hướng tâm linh con người đến một tầm cao mới. Hoạt động tâm linh, tôn giáo, luôn xuất hiện cùng với con người qua mọi thời đại. Các công trình xây dựng to lớn và bền vững qua hàng ngàn năm của các nền văn minh luôn là những đền đài, thánh tích thuộc về các tôn giáo. Hoạt động tôn giáo, tâm linh xét trong ý nghĩa sâu xa chính là những nổ lực tiến hóa của con người. Từ những đạo đơn giản thủa ban sơ thờ thần lửa, thần gió, thần mặt trời,v.v… xuất hiện các tôn giáo có nội dung triết lý cao hơn. Dù là một tôn giáo lớn hay các giáo phái nhỏ, từ triết lý cao siêu hay chỉ từ những tín ngưỡng ngô nghê, thì tất cả các hoạt động đó cũng luôn có rất đông tín đồ. Nghĩa là luôn có một lực thúc đẩy bí mật và mạnh mẽ khiến con người phải đi về những khuynh hướng tâm linh đa dạng và khác nhau như vậy. Sự mù quáng trong tôn giáo cũng có ý nghĩa nhất định của nó! Teillard De Chardin tin rằng: Con người, trong sự lần mò mù lòa (tatonnement aveugle), cuối cùng sẽ tiến đến điểm Omega để trở thành thượng Đế. Có phải luật tiến hóa sinh vật nói chung, hay tiến hóa tâm linh nói riêng đã giải thích sự hình thành tôn giáo và tính đa dạng của nó. Có phải luật tiến hóa đã hình thành các khuynh hướng tâm linh, các kĩ thuật thiền, đặc biệt là thiền quán với sự phát triển những Trí (ñāṇaṃ) trong Đạo Phật? Có phải luật tiến hóa, với một lực thúc đẩy bí mật và mạnh mẽ bên trong, đã giải thích được rằng tại sao có những cá thể đã tự nguyện cống hiến tất cả cuộc đời cho mục đích giác ngộ!
Tuệ trong đời thường là năng lực cao nhất của tâm trí con người vốn do học hỏi, tìm hiểu. Sự sáng tạo trong khoa học thường do trực giác (tuệ) mà có. Đối với lãnh vực tâm linh, ngoài sự hiểu biết do nghe và đọc, Tuệ phát triển do thiền (bhāvanā) tức các phương pháp trải nghiệm nội tâm bên trong. Tuệ không phải do sự ban phúc của thượng đế, không mang tính thần bí. Đạo Phật đạt giác ngộ bằng các tuệ phát xuất từ con người, nghĩa là bằng chính năng lực của con người. Nhìn với quan điểm của tiến hóa luận: Ý thức con người, tuệ phục vụ khoa học, tuệ dùng để giải thoát, tất cả đều cùng nằm chung trên một dòng tiến hóa. Nghĩa là cùng một cội nguồn xuất phát với mức độ cao thấp, tinh tế, thăng hoa khác nhau. Với góc nhìn như vậy, sẽ giúp ta tự tin hơn trong tu tập, thoát ra khỏi hỏa mù của ngôn ngữ tôn giáo, tránh khỏi sắc màu thần bí vốn có rất nhiều trong lãnh vực tâm linh.
BS. Phạm Doãn
Nguồn: http://www.paliviet.info
0 comments:
Post a Comment